
International Journal of Bank Marketing
SSCI-ISI SCOPUS (1983-2023)
0265-2323
1758-5937
Anh Quốc
Cơ quản chủ quản: Emerald Group Publishing Ltd.
Các bài báo tiêu biểu
Bài viết này nhằm kiểm tra các yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc áp dụng ngân hàng di động trong số người dùng ngân hàng trực tuyến hiện tại tại Singapore và giới tính như một biến điều chỉnh.
Một mẫu hơn 600 người dùng ngân hàng điện tử hiện tại đã cung cấp ý kiến về ý định sử dụng ngân hàng di động, nhận thức về lợi ích tương đối của thiết bị di động, nhận thức về rủi ro, chuẩn xã hội, độ dễ sử dụng và tính hữu ích của thiết bị cho các mục đích ngân hàng. Dữ liệu được gửi đến LISREL để thực hiện mô hình phương trình cấu trúc.
Tính hữu ích, chuẩn xã hội và rủi ro xã hội, theo thứ tự này, là các yếu tố ảnh hưởng đến ý định áp dụng dịch vụ ngân hàng di động nhất. Độ dễ sử dụng có ảnh hưởng mạnh hơn đối với các nữ phản hồi hơn nam, trong khi lợi ích tương đối có tác động mạnh hơn đến nhận thức về tính hữu ích ở nam giới. Chuẩn xã hội (hay tầm quan trọng của người khác trong quyết định) cũng ảnh hưởng đến việc áp dụng mạnh mẽ hơn ở nữ giới so với nam giới.
Mẫu nghiên cứu có xu hướng nghiêng về những người hiện đang sử dụng Internet để giao dịch ngân hàng. Tuy nhiên, các nhà đổi mới trong lĩnh vực ngân hàng di động có thể không đến chủ yếu từ những người dùng ngân hàng trực tuyến hiện tại.
Vì giới tính đóng vai trò điều chỉnh trong nhận thức về độ dễ sử dụng, chuẩn xã hội và lợi ích tương đối, các công ty được khuyên nên điều chỉnh chiến thuật truyền thông của họ theo giới tính. Chuẩn xã hội quan trọng hơn đối với nữ giới so với nam giới cũng như độ dễ sử dụng, trong khi lợi ích tương đối lại quan trọng hơn đối với nam giới.
Nghiên cứu này chủ ý sử dụng giới tính như một yếu tố điều chỉnh và rủi ro như một biến độc lập, điều không thường được xem xét trong các nghiên cứu trước đây.
Mục đích của bài báo này là nghiên cứu các yếu tố quan trọng giúp giải thích ý định và hành vi sử dụng của người tiêu dùng trong việc áp dụng ngân hàng di động (m-banking). Tất cả các cấu trúc của lý thuyết chấp nhận và sử dụng công nghệ thống nhất 2 được nghiên cứu. Giá trị phi tài chính được nghiên cứu thông qua giá trị cảm nhận. Niềm tin và rủi ro cảm nhận cũng được đưa vào để dự đoán ý định.
Một bảng câu hỏi đã được sử dụng để đánh giá phản hồi của khách hàng trên thang Likert năm điểm. Một kỹ thuật lấy mẫu thuận tiện đã được sử dụng để thu thập dữ liệu từ mẫu 490 người tham gia tại Pakistan. Dữ liệu đã được phân tích bằng AMOS và SPSS cho Cronbach’s
Kết quả của nghiên cứu cho thấy hầu hết các yếu tố dự đoán ý định, bao gồm giá trị cảm nhận, kỳ vọng hiệu suất, thói quen, ảnh hưởng xã hội, kỳ vọng nỗ lực, động lực hedonistic (ngoại trừ điều kiện hỗ trợ), rủi ro cảm nhận và niềm tin, là có ý nghĩa. Tất cả các yếu tố dự đoán hành vi sử dụng đều có ý nghĩa.
Một nghiên cứu cắt ngang đã được tiến hành do các hạn chế về thời gian.
Các nhà quản lý ngân hàng cần tập trung vào việc cải thiện ý định của khách hàng trong việc sử dụng m-banking cũng như việc cung cấp các điều kiện hỗ trợ để tăng cường việc sử dụng thực tế. Để thúc đẩy ngân hàng di động, ban quản lý ngân hàng cần xem xét thói quen của khách hàng trong khi thiết kế các sản phẩm m-banking của họ.
Những phát hiện trong bài báo này không chỉ thú vị về mặt gia tăng tỷ lệ khuếch tán m-banking, mà còn về mặt bao gồm tài chính cho số đông người dùng di động. Hơn nữa, tác động của ý định, điều kiện hỗ trợ và thói quen đã được kiểm tra đối với hành vi sử dụng thực tế vì con người không phải lúc nào cũng hành động theo ý định của họ.
Mục đích của bài báo này là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng dịch vụ ngân hàng di động ở Ấn Độ và phát triển cùng xác thực thực nghiệm một mô hình giải thích ý định hành vi sử dụng dịch vụ ngân hàng di động trong lĩnh vực ngân hàng Ấn Độ.
Trong nghiên cứu này, một mô hình được phát triển và đề xuất nhằm giải thích ý định của khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng di động. Mô hình bao gồm sáu cấu trúc, đó là: cảm nhận về tính dễ sử dụng, tự tin vào khả năng sử dụng máy tính, ảnh hưởng xã hội, chi phí tài chính cảm nhận, an ninh, và niềm tin. Mô hình cũng mô tả mối quan hệ giữa cảm nhận về tính dễ sử dụng và tự tin vào khả năng sử dụng máy tính, cũng như giữa an ninh và niềm tin. Mô hình đề xuất đã được thử nghiệm bằng phương pháp khảo sát, với một mẫu gồm 855 khách hàng ngân hàng từ các ngân hàng công, tư, nước ngoài và hợp tác xã tại Ấn Độ. Phân tích mô hình phương trình cấu trúc được thực hiện bằng AMOS 16.0.
Mô hình lý thuyết đề xuất được tìm thấy có khả năng dự đoán, với ý nghĩa thống kê, ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng di động, giải thích 76,9% biến thiên trong biến phụ thuộc. Các kết quả cho thấy an ninh, tự tin vào khả năng sử dụng máy tính, cảm nhận về tính dễ sử dụng, và chi phí tài chính cảm nhận, theo thứ tự ảnh hưởng, ảnh hưởng đến ý định của khách hàng trong việc áp dụng dịch vụ ngân hàng di động.
Các kết quả thu được sẽ giúp cho các nhà nghiên cứu học thuật và thực tiễn giải thích, hiểu rõ và phân tích tình trạng dịch vụ ngân hàng di động tại Ấn Độ, cũng như giúp họ xây dựng các chiến lược để thúc đẩy việc sử dụng ngân hàng di động.
Việc áp dụng dịch vụ ngân hàng di động tại Ấn Độ đang ở giai đoạn sơ khai so với các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Vương Quốc Anh và Phần Lan, nhưng dự kiến sẽ tăng hoặc vượt qua tỷ lệ áp dụng dịch vụ ngân hàng qua Internet tại những quốc gia này. Hơn nữa, cho đến nay chỉ có một nghiên cứu hạn chế đã xem xét việc áp dụng dịch vụ ngân hàng di động tại Ấn Độ, đặc biệt là các yếu tố thúc đẩy và cản trở việc áp dụng dịch vụ ngân hàng di động.
Mục đích của bài báo này là khảo sát khái niệm đa chiều về chất lượng dịch vụ ngân hàng di động (bảo mật/riêng tư, thực tiễn, thiết kế/thẩm mỹ, sự tận hưởng và tính xã hội) và tác động của các yếu tố này đến chất lượng mối quan hệ (cam kết, niềm tin và sự hài lòng) giữa người tiêu dùng và tổ chức tài chính chính của họ.
Một cuộc khảo sát trực tuyến đã được tiến hành với 375 người tham gia, tất cả đều là chủ sở hữu thiết bị di động và quen thuộc với việc thực hiện các hoạt động ngân hàng trên nền tảng di động. Kết quả đã được phân tích bằng cách sử dụng các kỹ thuật mô hình cấu trúc (EQS 6.1).
Kết quả xác nhận rằng niềm tin có tác động tích cực và đáng kể đến cam kết/sự hài lòng. Các chiều kích chất lượng dịch vụ ngân hàng di động cũng ảnh hưởng đến niềm tin và cam kết/sự hài lòng. Niềm tin liên quan đến bảo mật/riêng tư và thực tiễn (được coi là các yếu tố hữu dụng), trong khi cam kết/sự hài lòng chịu ảnh hưởng từ sự tận hưởng và tính xã hội (các chiều kích có thiên hướng hedonistic). Không có liên kết nào được tìm thấy giữa thiết kế giao diện và niềm tin hay cam kết/sự hài lòng.
Mặc dù dịch vụ ngân hàng trực tuyến ngày càng phổ biến, mức độ ý định sử dụng các dịch vụ này vẫn khác nhau giữa các quốc gia. Mục đích của bài báo này là tập trung vào ngân hàng điện tử ở một quốc gia có ý định sử dụng ngân hàng điện tử thấp – Jordan – và giải thích nguyên nhân việc sử dụng chậm trễ.
Một phương pháp định lượng sử dụng khảo sát cắt ngang đã được chọn là cách phù hợp để đáp ứng các mục tiêu nghiên cứu. Khảo sát được phát cho khách hàng ngân hàng ở Amman, Jordan, thu thập tổng cộng 328 bảng câu hỏi hoàn chỉnh. Phần mềm SPSS và AMOS đã được sử dụng, và phân tích hồi quy đa biến cùng mạng nơ-ron nhân tạo đã được áp dụng để xác định tác động và tầm quan trọng tương đối của các yếu tố dự đoán việc sử dụng ngân hàng điện tử.
Các kỹ thuật thống kê đã chỉ ra rằng một số yếu tố chính, bao gồm khả năng sử dụng dễ dàng, tính hữu ích cảm nhận, an ninh và giá cả hợp lý, nổi bật như là các rào cản đối với ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử ở Jordan.
Nghiên cứu này đưa ra một loạt các hệ quả về ý định sử dụng ngân hàng điện tử. Nó thu hút sự chú ý của các ngân hàng Jordan vào khả năng hoạt động đầy đủ của hệ thống ngân hàng điện tử của họ, nhấn mạnh các tính năng an toàn tích cực, điều này có thể giúp thay đổi những nhận thức tiêu cực của khách hàng. Nó cũng đóng góp vào việc làm sáng tỏ lý thuyết về giá trị khách hàng giữa các ngân hàng bằng cách nhấn mạnh cách họ nên nâng cao việc sử dụng giá trị chung của mình. Hơn nữa, nó sẽ trình bày cho các nhà quản lý cách mà các yếu tố dự đoán ngân hàng điện tử có thể gửi thông tin có ý nghĩa và kịp thời đến khách hàng.
– Chưa có nhiều thông tin về việc áp dụng công nghệ ngân hàng di động trong các nền kinh tế châu Á đang phát triển. Mục đích của bài báo này là kiểm tra thực nghiệm các yếu tố tác động đến ý định của người tiêu dùng khi sử dụng ngân hàng di động.
– Một khảo sát trực tuyến đã được sử dụng để thu thập dữ liệu từ 348 người tham gia, chia thành các nhóm ở Thái Lan và Úc. Dữ liệu đã được phân tích bằng các phương pháp phân tích yếu tố khám phá và xác nhận, phân tích đường dẫn và độ không đổi.
– Các kết quả chỉ ra rằng đối với người tiêu dùng Úc, độ dễ sử dụng cảm nhận, tính hữu ích cảm nhận (PU) và rủi ro cảm nhận (PR) là các yếu tố chính quyết định đến việc áp dụng ngân hàng di động. Đối với người tiêu dùng Thái Lan, các yếu tố chính là PU, PR và ảnh hưởng xã hội. Văn hóa quốc gia được phát hiện có tác động đến các yếu tố đầu vào quan trọng dẫn đến việc áp dụng ngân hàng di động.
– Biến số thực tế được giải thích bởi mô hình nghiên cứu cao hơn ở Úc (59.3%) so với Thái Lan (23.8%), cho thấy cần có những nghiên cứu trong tương lai về việc áp dụng ngân hàng di động trong các nền văn hóa châu Á đang phát triển.
– Các tác giả xác định những yếu tố quan trọng mà người tiêu dùng xem xét khi áp dụng ngân hàng di động. Các phát hiện của nghiên cứu này cung cấp cho các tổ chức ngân hàng một mô hình cơ sở có thể được sử dụng để hỗ trợ việc triển khai ngân hàng di động.
– Nghiên cứu này có thể là lần đầu tiên kiểm tra và so sánh ý định áp dụng ngân hàng di động giữa người tiêu dùng Thái Lan và Úc, đồng thời đáp ứng những yêu cầu nghiên cứu bổ sung nhằm tổng quát hóa việc chấp nhận ngân hàng di động và dịch vụ di động qua các nền văn hóa. Nghiên cứu này đã đề xuất và xác thực các cấu trúc bổ sung không có trong mô hình Ý định sử dụng SST ban đầu.
Mục đích của bài báo này là để điều tra các yếu tố quyết định ý định của người tiêu dùng trong việc áp dụng dịch vụ ngân hàng di động tại Zimbabwe.
Một cuộc khảo sát với 232 khách hàng ngân hàng đã được thực hiện tại Chinhoyi, Zimbabwe, sử dụng bảng hỏi có cấu trúc với các câu hỏi loại Likert. Khách hàng đã được chọn ngẫu nhiên khi họ ra khỏi năm ngân hàng lớn. Mô hình phương trình cấu trúc, kiểm định
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự hữu ích cảm nhận, tự hiệu quả cảm nhận, ảnh hưởng xã hội, lợi thế tương đối và sự tương thích cảm nhận đều có tác động tích cực, trong khi rủi ro cảm nhận có tác động tiêu cực đến ý định hành vi trong việc áp dụng dịch vụ ngân hàng di động tại Zimbabwe. Sự dễ sử dụng cảm nhận, điều kiện thuận lợi, phức tạp cảm nhận, khả năng thử nghiệm cảm nhận, nhận thức-kiến thức và các yếu tố nhân khẩu học (giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn và thu nhập) không có ảnh hưởng đáng kể đến ý định hành vi trong việc áp dụng ngân hàng di động. Sự dễ sử dụng cảm nhận đã được phát hiện có tác động tích cực đến sự hữu ích cảm nhận, trong khi tự hiệu quả cảm nhận được tìm thấy có tác động tích cực đến sự dễ sử dụng cảm nhận. Ý định hành vi được phát hiện có tác động tích cực đến việc sử dụng dịch vụ ngân hàng di động tại Zimbabwe.
Dữ liệu được thu thập từ khách hàng ngân hàng tại Chinhoyi, một trong những thành phố mới nổi ở Zimbabwe. Các nghiên cứu trong tương lai nên được mở rộng để bao gồm các thành phố lớn khác ở Zimbabwe và các quốc gia khác. Nên thực hiện nhiều nghiên cứu tương tự để kiểm tra các yếu tố đã được xác định trong tài liệu ở các bối cảnh và thị trường khác nhau cũng như trên các đổi mới khác.
Nghiên cứu khuyên các ngân hàng nên đặc biệt chú ý đến sự hữu ích cảm nhận, tự hiệu quả cảm nhận, ảnh hưởng xã hội, lợi thế tương đối, sự tương thích cảm nhận và rủi ro cảm nhận khi thiết kế các dịch vụ ngân hàng di động mới.
Không có một vị trí thống nhất về các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng ngân hàng di động. Các yếu tố thay đổi tùy theo bối cảnh, thị trường, thời gian và loại đổi mới. Nghiên cứu đã kiểm tra một số yếu tố chính được xác định trong tài liệu trong bối cảnh Zimbabwe.
Mục đích của bài báo này là cung cấp cái nhìn toàn diện về các yếu tố quyết định ảnh hưởng đến ý định của cá nhân trong việc chấp nhận dịch vụ ngân hàng di động (m-banking) tại Pakistan.
Một phương pháp khảo sát đã được sử dụng với mẫu 189 phản hồi từ khắp nơi ở Pakistan. Phân tích đa nhóm đã được thực hiện để phát hiện sự khác biệt giới giữa nam và nữ trong quá trình chấp nhận m-banking.
Bài báo đã tìm thấy sự hỗ trợ cho hiệu ứng tích cực của kiểm soát hành vi cảm nhận (PBC) và thái độ (ATT) đối với ý định chấp nhận m-banking. Những khác biệt đáng kể giữa nam và nữ đã được tìm thấy ảnh hưởng đến chuẩn mực chủ quan (SN) trong ý định chấp nhận, mặc dù mẫu kết hợp của nam và nữ là không đáng kể. Ảnh hưởng của SN đến việc chấp nhận m-banking mạnh hơn đối với phụ nữ so với nam giới. Thú vị hơn, bài báo cung cấp những phát hiện mâu thuẫn về vai trò của PBC đối với ý định chấp nhận. Ảnh hưởng của PBC đối với ý định chấp nhận m-banking được phát hiện là mạnh hơn đáng kể đối với nam giới so với phụ nữ.
– Mục đích của bài báo này là khám phá các rào cản, vai trò trung gian của tính khả dụng và các tác động điều tiết của khả năng tự quyết và hình ảnh cảm nhận đối với thái độ của người tiêu dùng về việc sử dụng ngân hàng di động (MB) tại Iran.
– Dựa trên dữ liệu từ khảo sát người tiêu dùng, mô hình các phương trình cấu trúc và phân tích đường dẫn đã được sử dụng để kiểm tra mô hình nghiên cứu.
– Kết quả cho thấy “sự tương thích của hệ thống” là yếu tố chính ảnh hưởng đến thái độ của người dùng đối với việc sử dụng MB. “Kháng cự” có tác động tiêu cực đáng kể đến cả tính dễ sử dụng và tính hữu ích. “Tính hữu ích cảm nhận” trung gian mối quan hệ giữa tính dễ sử dụng và thái độ của người dùng. Cuối cùng, trái ngược với khả năng tự quyết, mà không cho thấy tác động đáng kể, hình ảnh cảm nhận đã điều tiết các mối quan hệ giữa tính hữu ích và thái độ.
– Mẫu chỉ bao gồm người dùng MB, trong khi những người không sử dụng không được nghiên cứu.
– Các nghiên cứu trước đây thường không xem xét vai trò của các yếu tố cá nhân như khả năng tự quyết và các yếu tố xã hội như hình ảnh cảm nhận với tư cách là các biến điều tiết trong bối cảnh của các quốc gia đang phát triển.
Mục đích của bài báo này là để xem xét vai trò kết hợp của cảm nhận tính hữu ích (PU), cảm nhận tính dễ sử dụng, cảm nhận tính an toàn và động lực hedon trong việc áp dụng ngân hàng điện tử. Bài báo cũng nhằm xác định khả năng của động lực hedon trong việc chuyển giao ảnh hưởng của các yếu tố quyết định khác đến việc áp dụng ngân hàng điện tử.
Để kiểm nghiệm thực nghiệm mô hình lý thuyết của nghiên cứu này, dữ liệu đã được thu thập từ người dùng ngân hàng điện tử tại Nigeria. Tổng cộng có 266 bảng hỏi đã được phân tích bằng phương pháp mô hình phương trình cấu trúc sử dụng bình phương tối thiểu một phần.
Kết quả thực nghiệm cho thấy có một mối quan hệ tích cực và đáng kể giữa PU, cảm nhận tính an toàn và việc áp dụng ngân hàng điện tử. Kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong mối quan hệ giữa PU, cảm nhận tính dễ sử dụng, cảm nhận tính an toàn và động lực hedon. Tuy nhiên, không có sự hỗ trợ cho mối quan hệ giữa cảm nhận tính dễ sử dụng và việc áp dụng ngân hàng điện tử. Động lực hedon đóng vai trò trung gian giữa PU, cảm nhận tính an toàn và việc áp dụng ngân hàng điện tử. Nghiên cứu không tìm thấy ảnh hưởng trung gian của động lực hedon giữa cảm nhận tính dễ sử dụng và việc áp dụng ngân hàng điện tử.