Development and Change

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
Liệu Chính Sách Tốt Có Thể Thực Hiện Được? Những Suy Ngẫm Về Dân Tộc Học Chính Sách và Thực Hành Hỗ Trợ Dịch bởi AI
Development and Change - Tập 35 Số 4 - Trang 639-671 - 2004
David Mosse
Tóm tắt

Dù có rất nhiều năng lượng được dành cho việc đề ra các mô hình chính sách hợp lý trong phát triển, nhưng một cách kỳ lạ, rất ít sự chú ý được dành cho mối quan hệ giữa những mô hình này và các thực hành cùng sự kiện mà chúng dự kiến tạo ra hoặc hợp pháp hóa. Bài báo này tập trung vào các hoạt động diễn ra của một dự án phát triển trong hơn mười năm khi nó nằm dưới các chế độ chính sách khác nhau, thách thức giả định rằng thực hành phát triển được thúc đẩy bởi chính sách, đồng thời gợi ý rằng những điều làm nên 'chính sách tốt' - chính sách hợp pháp hóa và huy động sự ủng hộ chính trị - thực tế lại làm cho nó khó có thể thực hiện trong các tổ chức và khu vực mà nó hướng đến. Nhưng mặc dù thực hành phát triển bị chi phối bởi một mạng lưới phức tạp đa chiều của các mối quan hệ và văn hóa của các tổ chức thay vì chính sách, các tác nhân phát triển lại làm việc chăm chỉ nhất để duy trì các khái niệm nhất quán về hành động của họ như là các trường hợp của chính sách được ủy quyền, vì điều đó luôn nằm trong lợi ích của họ. Bài báo đặt những quan sát này trong bối cảnh rộng hơn của nhân học phát triển và phản ánh về vị trí, phương pháp và đóng góp của dân tộc học phát triển.

Labour in Global Value Chains: Work Conditions in Football Manufacturing in China, India and Pakistan
Development and Change - Tập 43 Số 6 - Trang 1211-1237 - 2012
Peter Lund‐Thomsen, Khalid Nadvi, Anita Chan, Navjote Khara, Hong Xue
ABSTRACT

A critical challenge facing developing country producers is to meet international labour standards and codes of conduct in order to engage in global value chains. Evidence of gains for workers from compliance with such standards and codes remains limited and patchy. This article focuses on the global football industry, a sector dominated by leading global brands that manage dispersed global value chains. It assesses the working conditions for football stitchers engaged in different forms of work organization, factories, stitching centres and home‐based settings in Pakistan, India and China. It draws on detailed qualitative primary field research with football‐stitching workers and producers in these three countries. The article explains how and why work conditions of football stitchers differ across these locations through an analytical framework that interweaves both global and local production contexts that influence work conditions. In doing so, it argues that current debates on the role of labour in global value chains have to go beyond a narrow focus on labour standards and corporate social responsibility compliance and engage with economic, technological and social upgrading as factors that could generate sustained improvements in real wages and workers’ conditions.

The Global Sourcing and Codes of Conduct Debate: Five Myths and Five Recommendations
Development and Change - Tập 39 Số 6 - Trang 1005-1018 - 2008
Peter Lund‐Thomsen
ABSTRACT

Much attention has been devoted to corporate social responsibility (CSR) in recent years. Codes of conduct — or the ethical principles that companies use to guide their practices — have been at the heart of the debate about how global companies should manage their supply chains in a socially and environmentally responsible manner. What characterizes the debate today? Exaggerated claims are often made about the benefits that codes supposedly bring to workers and the environment in the developing world. The risk is that codes of conduct may do more harm than good, because much of the academic and policy‐oriented rhetoric on the topic is largely divorced from the realities faced by many developing country suppliers, workers and communities. Using insights from recent fieldwork in the Pakistani sporting goods industry, this contribution attempts to bust five myths that continue to characterize the codes of conduct debate and introduce five recommendations that could lead to a more fruitful engagement with future research, policy, and practice in this area.

Phát triển do Ngân hàng Thế giới chỉ đạo? Đàm phán sự tham gia trong Dự án Thủy điện Nam Theun 2 tại Lào Dịch bởi AI
Development and Change - Tập 40 Số 3 - Trang 487-507 - 2009
Sarinda Singh
TÓM TẮT

Sự toàn quyền của Ngân hàng Thế giới trên quy mô toàn cầu có nghĩa là nó thường được coi là đối tác có ảnh hưởng nhất trong việc mang lại những biến đổi tại các quốc gia đang phát triển. Bài viết này đóng góp vào các cuộc thảo luận đang diễn ra về vấn đề này bằng cách xem xét một số tác động của chương trình tham gia của Ngân hàng trong một trong những dự án hàng đầu của nó, dự án thủy điện Nam Theun 2 (NT2) tại Lào. Các báo cáo phê phán cho rằng việc Ngân hàng thúc đẩy sự tham gia tại các quốc gia phụ thuộc vào viện trợ như Lào là một hình thức che đậy hoặc một sự áp đặt. Những đề xuất này được xem xét trong hai bối cảnh mà sự tham gia đã được thảo luận xung quanh thời gian đánh giá khoản vay của Ngân hàng cho NT2: đầu tiên, một hội thảo cho các bên liên quan quốc tế được tổ chức tại Vientiên; và thứ hai, một số nỗ lực quốc tế nhằm xác định mối quan tâm của các cư dân sống gần địa điểm đập NT2. Trong các hội thảo và làng quê, sự tham gia là một màn trình diễn được đàm phán, nơi các đại diện cạnh tranh xuất hiện thông qua sự tương tác giữa làng, nhà nước và các tác nhân quốc tế. Một cách tổng quát, bài viết này cho thấy rằng một cái nhìn dựa trên thực tiễn về phát triển có thể chú ý đến những hoạt động hạn chế xu hướng thống trị của Ngân hàng Thế giới, ngay cả khi vẫn nhận thức được sức mạnh của các chính sách và can thiệp của nó.

Mặt Nạ Thị Trường: Khám Phá Chính Trị Của Các Chương Trình Thanh Toán Dịch Vụ Môi Trường Cấp Cộng Đồng Tại Campuchia Dịch bởi AI
Development and Change - Tập 43 Số 1 - Trang 133-158 - 2012
Sarah Milne, Bill Adams
TÓM TẮT

Số lượng ngày càng gia tăng các chương trình Thanh Toán Dịch Vụ Môi Trường (PES) đang được thực hiện ở cấp cộng đồng tại các quốc gia đang phát triển, đặc biệt trong bối cảnh nỗ lực giảm thiểu biến đổi khí hậu nhằm Giảm Phát Thải từ Sự Phá Rừng và Suy Giảm Rừng (REDD). Song song với điều này, có những bình luận sôi nổi về các tác động của các chiến lược bảo tồn dựa trên thị trường hoặc tư bản chủ nghĩa, và những ảnh hưởng tiềm tàng của chúng đối với các cộng đồng phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên. Bài viết này khám phá các yếu tố chính trị của các chương trình PES cấp cộng đồng tại Campuchia, nơi các hợp đồng cho 'tránh phá rừng' và 'bảo tồn Biodiversity' đã được thực hiện ở năm cộng đồng. Nghiên cứu xem xét ba khía cạnh của mô hình PES cấp cộng đồng vốn có tính chất chính trị: sự tham gia của cộng đồng như những thực thể đồng nhất, có khả năng ký hợp đồng PES; sự đơn giản hóa các thực hành sử dụng đất và quyền tài nguyên; và giả định rằng các hợp đồng là tự nguyện hoặc phản ánh 'sự lựa chọn của cộng đồng'. Những yếu tố này của PES hoạt động cả về mặt diễn ngôn lẫn thực tiễn để làm im lặng một số tiếng nói và yêu cầu nhất định, trong khi ưu tiên một số khác. Do đó, bản chất có vấn đề của PES cấp cộng đồng không phải là nó là một thị trường per se, mà là nó là một can thiệp mạnh mẽ ngụy trang dưới dạng một thị trường. Quá trình ‘mặt nạ thị trường’ này nổi lên như một yếu tố chính trong chính trị của bảo tồn tư bản chủ nghĩa trên thực tế.

Xây Dựng Đường Không Chính Thức Ở Amazon: Giải Thích Kinh Tế-Xã Hội và Sinh Thái Học Dịch bởi AI
Development and Change - Tập 38 Số 3 - Trang 529-551 - 2007
Stephen G. Perz, Marcellus M. Caldas, Eugênio Arima, Robert J. Walker
TÓM TẮT

Các con đường có nhiều tác động xã hội và môi trường, bao gồm phát triển vùng, xung đột xã hội và phân mảnh môi trường sống. 'Sinh thái học đường bộ' đã nổi lên như một cách tiếp cận để đánh giá các tác động sinh thái và thủy văn khác nhau của các con đường. Bài viết này nhằm bổ sung cho sinh thái học đường bộ bằng cách xem xét các quá trình xã hội - không gian trong việc xây dựng đường bộ. Tập trung vào khu vực Amazon của Brazil, một bối cảnh được nghiên cứu kỹ lưỡng do sự phân mảnh rừng bởi các con đường, tác giả xem xét các tác nhân xã hội phi nhà nước xây dựng 'các con đường không chính thức' với mục đích thu hút tài nguyên thiên nhiên nhằm hỗ trợ sinh kế và phát triển cộng đồng. Họ kiểm tra bốn trường hợp nghiên cứu về các con đường với lịch sử khác nhau để giải thích các quá trình xã hội - không gian đứng sau việc xây dựng đường, liên quan đến tối đa hóa lợi nhuận, yêu cầu quyền sử dụng đất, các sinh thái chính trị hợp tác và xung đột, cũng như các ràng buộc và cơ hội do môi trường sinh học tạo ra. Các trường hợp nghiên cứu minh họa sự cần thiết phải có một cách tiếp cận lý thuyết đa chiều để hiểu về việc xây dựng đường, và kêu gọi sự chú ý nhiều hơn đến vai trò của các tác nhân phi nhà nước trong việc xây dựng đường.

Kết Quả Phức Hợp: Tác Động Của Tự Trị Khu Vực Và Phân Cấp Đối Với Các Dân Tộc Thiểu Số Bản Địa Tại Indonesia Dịch bởi AI
Development and Change - Tập 38 Số 4 - Trang 711-733 - 2007
Christopher R. Duncan
TÓM TẮT

Bài báo này xem xét cách mà các dân tộc thiểu số bản địa tại Indonesia đang bị ảnh hưởng bởi việc thực hiện các chính sách phân cấp và tự trị khu vực. Các pháp luật mới đã chuyển giao trách nhiệm và quyền hạn về nhiều vấn đề, bao gồm khai thác tài nguyên và quản lý địa phương, từ chính phủ trung ương sang các cơ quan khu vực ở cấp huyện. Các thành viên của phong trào quyền lợi dân tộc bản địa đang ngày càng phát triển hy vọng rằng quá trình phân cấp này sẽ cho phép các cộng đồng dân tộc thiểu số duy trì hoặc khôi phục quyền kiểm soát tài nguyên thiên nhiên thông qua chính trị địa phương. Hơn nữa, một số dân tộc thiểu số đã coi việc thực hiện phân cấp như một cơ hội để trở về với các hình thức sở hữu đất đai và quản lý tài nguyên địa phương mà đã bị chính phủ quốc gia coi thường trong phần lớn thế kỷ 20. Tuy nhiên, những luật mới này cũng khuyến khích chính quyền cấp huyện tạo ra thu nhập thông qua việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, vì họ sẽ nhận được một tỷ lệ phần trăm nhất định từ các khoản doanh thu này. Các cộng đồng thiểu số có thể bị ảnh hưởng tiêu cực khi các chính quyền địa phương phớt lờ quyền đất đai của họ trong nỗ lực thu nhập để trang trải cho các chi phí mới, về cơ bản vẫn tiếp tục các thực tiễn của các chính phủ trước đây. Bài báo này xem xét các cơ hội mới, cũng như những mối đe dọa mới do phân cấp mang lại cho các dân tộc thiểu số trên khắp Indonesia.

Chiếm lĩnh các Rìa: Tích hợp Lao động và Đ exclusion Xã hội trong Khai thác Thủ công tại Tanzania Dịch bởi AI
Development and Change - Tập 38 Số 4 - Trang 735-760 - 2007
Eleanor Fisher
TÓM TẮT

Bài viết này xem xét vị trí bên lề của các thợ mỏ thủ công tại khu vực hạ Sahara ở châu Phi và xem xét cách họ được tích hợp vào những thay đổi trong lĩnh vực khoáng sản trong bối cảnh hội nhập thể chế và pháp lý. Với ý tưởng về việc khai thác kim cương và vàng ở Tanzania, khái niệm về sự loại trừ xã hội được sử dụng để khám phá những hậu quả của việc bị marginal hóa đối với quyền tiếp cận tài nguyên khoáng sản của người dân và khả năng sinh kế từ việc khai thác thủ công. Vì những bất bình đẳng và hình thức phân biệt hiện có bị nhà nước Tanzania bỏ qua, việc hợp thức hóa các quyền khai thác khoáng sản làm xói mòn các mối quan hệ xã hội và quyền lực, từ đó duy trì quyền tiếp cận tài nguyên bất bình đẳng. Bài viết làm nổi bật tính phức tạp của các quá trình này và chỉ ra rằng, trong khi việc tích hợp pháp lý có thể mang lại lợi ích cho các nhóm người giàu có hơn, những người phù hợp với mô hình của một 'thợ mỏ nhỏ quy mô doanh nghiệp', thì đối với những người khác, việc bị tích hợp bất lợi góp phần vào sự phụ thuộc về kinh tế xã hội, sự bóc lột và sự không an toàn. Để vấn đề marginality được giải quyết trong các quá trình hội nhập, cần phải công nhận sự tồn tại của các hình thức tổ chức, thể chế và mối quan hệ địa phương, những điều này là nền tảng cho bất bình đẳng và phân biệt.

Nature™ Inc.: Sự Thay Đổi và Liên Tục trong Bảo Tồn Tân Tự Do và Chính Sách Môi Trường Dựa Trên Thị Trường Dịch bởi AI
Development and Change - Tập 43 Số 1 - Trang 53-78 - 2012
Murat Arsel, Bram Büscher
TÓM TẮT 

Công ty Nature™ mô tả phương thức tư duy ngày càng chiếm ưu thế về chính sách môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học trong những năm đầu thế kỷ hai mươi. Tự nhiên, vốn đã và đang trở thành một 'doanh nghiệp lớn', đặc biệt thông qua động lực khai thác, ô nhiễm và bảo tồn. Khi mỗi một trong các động lực này dường như trở nên mãnh liệt và cấp thiết hơn, dòng chính tư bản đang tìm kiếm những cách để bù đắp việc khai thác và ô nhiễm, đồng thời tìm kiếm (những phương pháp) bảo tồn tốt hơn, bên cạnh việc gia tăng cơ hội tích lũy vốn và lợi nhuận. Điều này đã đưa Công ty Nature™ đến những mức độ mới, và đã làm dấy lên sự chú ý từ học thuật phê phán. Các đóng góp trong phần tranh luận này đều đến từ một góc nhìn phê phán và có điều gì đó quan trọng để nói về việc xây dựng, chức năng và tương lai của Công ty Nature™. Bằng cách thảo luận về việc hội nhập tự nhiên đã được gắn thương hiệu và kết nối những hiểu biết mà các đóng góp mang lại cho cuộc tranh luận, chúng tôi nhận ra rằng có thể có một cái mà chúng tôi gọi là biện chứng đang gia tăng giữa sự thay đổi và những giới hạn tác động đến mối quan hệ giữa tư bản và tự nhiên. Kết luận của chúng tôi chỉ ra ngắn gọn một số vấn đề và câu hỏi mà biện chứng này có thể dẫn đến trong nghiên cứu tương lai về bảo tồn tân tự do và chính sách môi trường dựa trên thị trường.

Logic mâu thuẫn của các thị trường dịch vụ hệ sinh thái toàn cầu Dịch bởi AI
Development and Change - Tập 43 Số 1 - Trang 105-131 - 2012
Kathleen McAfee
TÓM TẮT 

Việc thương mại hóa và giao dịch xuyên quốc gia dịch vụ hệ sinh thái là phiên bản tham vọng nhất của chiến lược 'bán thiên nhiên để cứu lấy nó'. Ngân hàng Thế giới và các cơ quan của Liên Hợp Quốc cho rằng thị trường carbon toàn cầu có thể làm chậm lại biến đổi khí hậu trong khi tạo ra nguồn lực cho phát triển. Phù hợp với các phiên bản 'bao trùm' của chính sách phát triển tân tự do, những người ủng hộ cho rằng các dự án thanh toán cho dịch vụ hệ sinh thái (PES) quốc tế, được tài trợ bởi doanh thu từ bán tín chỉ carbon và ngân hàng đa dạng sinh học, có thể mang lại lợi ích cho người nghèo. Tuy nhiên, Ngân hàng Thế giới cũng cảnh báo rằng việc tập trung vào giảm nghèo có thể làm suy yếu hiệu quả trong chi tiêu bảo tồn. Kinh nghiệm của mười năm thực hiện PES cho thấy, trên thực tế, các tiêu chí hiệu suất thị trường va chạm trực tiếp với các ưu tiên về giảm nghèo. Tuy nhiên, các tiền đề của PES dựa trên thị trường đang được suy diễn như một mô hình cho các chương trình REDD toàn cầu được tài trợ bởi giao dịch tín chỉ carbon. Bài viết này lập luận rằng sự mâu thuẫn giữa phát triển và bảo tồn quan sát thấy trong PES là điều không thể tránh khỏi ở những dự án được khung bởi logic không xã hội của kinh tế học tân cổ điển. Việc áp dụng mô hình thị trường trong chính sách bảo tồn quốc tế, nơi mà các động lực lợi nhuận phụ thuộc vào chi phí cơ hội khác nhau, sẽ dẫn đến việc phân bổ lại tài sản từ các tầng lớp nghèo hơn sang các tầng lớp giàu hơn và từ các vùng nông thôn đến các trung tâm tích lũy vốn xa xôi, chủ yếu ở miền Bắc toàn cầu.

Tổng số: 22   
  • 1
  • 2
  • 3