Contemporary Accounting Research
SSCI-ISI SCOPUS (1984-2023)
0823-9150
1911-3846
Mỹ
Cơ quản chủ quản: WILEY , Wiley-Blackwell
Các bài báo tiêu biểu
This study examines the relation between audit quality and earnings management. Consistent with prior research, we treat audit quality as a dichotomous variable and assume that Big Six auditors are of higher quality than non‐Big Six auditors. Earnings management is captured by discretionary accruals that are estimated using a cross‐sectional version of the Jones 1991 model. Prior literature suggests that auditors are more likely to object to management's accounting choices that increase earnings (as opposed to decrease earnings) and that auditors are more likely to be sued when they are associated with financial statements that overstate earnings (as compared to understate earnings). Therefore, we hypothesize that clients of non‐Big Six auditors report discretionary accruals that increase income relatively more than the discretionary accruals reported by clients of Big Six auditors. This hypothesis is supported by evidence from a sample of 10,379 Big Six and 2,179 non‐Big Six firm years. Specifically, clients of non‐Big Six auditors report discretionary accruals that are, on average, 1.5‐2.1 percent of total assets higher than the discretionary accruals reported by clients of Big Six auditors. Also, consistent with earnings management, we find that the mean and median of the absolute value of discretionary accruals are greater for firms with non‐Big Six auditors. This result also indicates that lower audit quality is associated with more “accounting flexibility”.
A linear model specifies the dynamics of an information set that includes book value and abnormal earnings for operating activities. Model parameters represent
Three kinds of analyses develop from the model. The first set deals with value as it relates to anticipated realizations of accounting data. The second set examines in precise terms how value depends on contemporaneous realizations of accounting data. The third set examines asymptotic relations comparing market value to earnings and book values, and how earnings relate to beginning of period book values.
The paper demonstrates that in all three sets of analyses the conclusions hinge on the extent to which the accounting is conservative as opposed to unbiased. Further, the absence/presence of growth in operating activities is relevant if, and only if, the accounting is conservative.
Un modèle linéaire précise la dynamique d'un ensemble de données, incluant la valeur comptable et les bénéfices extraordinaires, relatives aux activités d'exploitation. Les paramètres du modèle traduisent la persistance des bénéfices extraordinaires, la
Du modèle se dégagent trois formes d'analyses. La première porte sur la valeur, dans sa relation avec la matérialisation anticipée des données comptables. La deuxième porte sur l'examen précis du lien entre la valeur et la matérialisation actuelle des données comptables. Enfin, la troisième porte sur l'examen des relations asymptotiques à travers lesquelles se comparent la valeur marchande, d'une part, et les bénéfices et la valeur comptable, d'autre part, ainsi que sur la façon dont les bénéfices se rattachent aux valeurs comptables du début de l'exercice.
Les auteurs établissent que dans les trois formes d'analyses, les conclusions s'orientent vers la mesure dans laquelle, dans le domaine comptable, l'accent est mis sur la prudence par opposition à l'impartialité. En outre, l'absence ou la présence de croissance dans les activités d'exploitation n'est pertinente que si et seulement si le principe de prudence est appliqué à la comptabilité.
Chúng tôi đánh giá và tổng hợp khối lượng lớn các nghiên cứu về phí kiểm toán và sử dụng phân tích tổng hợp để kiểm tra ảnh hưởng kết hợp của các biến độc lập được sử dụng phổ biến nhất. Góc nhìn từ phân tích tổng hợp cho phép chúng tôi xem xét lại các hiện tượng bất thường, các kết quả hỗn hợp và những khoảng trống trong nghiên cứu về phí kiểm toán. Chúng tôi nhận thấy rằng, mặc dù nhiều biến độc lập có kết quả nhất quán, một số biến không cho thấy mô hình rõ ràng trong các kết quả và những biến khác chỉ thể hiện kết quả đáng kể trong một số khoảng thời gian hoặc quốc gia nhất định. Các biến này bao gồm thua lỗ của khách hàng và đòn bẩy tài chính, đã trở thành yếu tố quan trọng trong các nghiên cứu tương đối gần đây; kiểm toán nội bộ và quản trị, cả hai đều có kết quả hỗn hợp; chuyên môn của kiểm toán viên, về vấn đề này vẫn còn một số bất định; và ý kiến kiểm toán, đã là một biến quan trọng trước năm 1990 nhưng không còn đáng kể trong các nghiên cứu gần đây.