
Chemical Papers
SCIE-ISI SCOPUS (1999-2022)
1336-9075
Cơ quản chủ quản: Springer International Publishing AG , SPRINGER INT PUBL AG
Các bài báo tiêu biểu
Bất kỳ bề mặt nào được ngâm trong hỗn hợp phản ứng nước được sử dụng để chuẩn bị polyanilin đều bị bao phủ bởi một lớp phim polyanilin có độ dày dưới một micromet. Bằng cách này, các vật liệu khác nhau có thể được thay đổi bởi một lớp polymer dẫn điện. Bài tổng quan hiện tại minh họa vai trò của quang phổ hồng ngoại, quang phổ Raman và quang phổ UV-VIS trong các nghiên cứu về sự phát triển của màng polyanilin. Các phương pháp quang phổ là rất quan trọng trong việc đánh giá hiệu suất của các màng polyanilin, riêng lẻ hoặc kết hợp với các hạt nano kim loại quý. Việc đánh giá độ già và tính ổn định của màng có thể được theo dõi thuận tiện bằng các phương pháp này. Sự cacbon hóa của các màng polyanilin thành các phân tử carbon chứa nitơ cũng được thảo luận.
Polyaniline (PANI) và polypyrrole (PPY) trải qua quá trình carbon hóa trong môi trường trơ/reduction và chân không, cho ra các vật liệu carbon chứa nitơ khác nhau. Bài viết này tổng hợp lại nhiều quy trình khác nhau để carbon hóa các tiền chất PANI và PPY, cùng với các đặc điểm của polyaniline đã carbon hóa (C-PANI) và polypyrrole đã carbon hóa (C-PPY) thu được. Đặc biệt chú ý đến vai trò của các quy trình tổng hợp trong việc điều chỉnh sự hình thành của các cấu trúc nano C-PANI và C-PPY. Bài đánh giá cũng xem xét tầm quan trọng của các phương pháp quang điện tử quét và truyền (scanning and transmission electron microscopies), phổ XPS, FTIR, Raman, NMR, EPR, đo điện trở và hấp thụ/khử hấp thụ, XRD, và phân tích nguyên tố trong việc đặc trưng cho C-PANIs và C-PPYs. Ứng dụng của C-PANI và C-PPY trong nhiều lĩnh vực công nghệ hiện đại cũng được xem xét.
Ba đột biến acetate của loài nấm men Yarrowia lipolytica đã được sàng lọc thông qua quá trình nuôi cấy theo mẻ. Chủng Y. lipolytica 1.31 được tìm thấy là phù hợp nhất cho việc sản xuất axit citric từ glycerol thô, một sản phẩm phụ của quá trình sản xuất biodiesel từ dầu cải. Tại nồng độ glycerol ban đầu là 200 g dm−3, sản lượng axit citric đạt được là 124,5 g dm−3, năng suất đạt 0,62 g g−1 và hiệu suất đạt 0,88 g dm−3 h−1.
Dữ liệu cân bằng lỏng-lỏng của axit butyric (BA) trong các dung dịch nước tiếp xúc với dung môi chứa ionic liquid (IL), trihexyl-(tetradecyl)phosphonium bis 2,4,4-trimethylpentylphosphinate (Cyphos IL-104), và một mô hình liên quan đã được trình bày. IL-104 và các dung dịch của nó trong dodecane được tìm thấy là dung môi hiệu quả cho BA. Giá trị hệ số phân phối của BA cao hơn so với các dung môi có tác nhân chiết tách phổ biến là trioctylamine, đặc biệt ở nồng độ axit thấp và cũng cao hơn nhiều lần so với axit lactic (LA). IL chỉ chiết tách BA dưới dạng không phân li (BAH) tại pH thấp hơn pK a của axit. Tải lượng của IL không phụ thuộc vào nồng độ IL và đạt giá trị cao hơn bốn tại điểm bão hòa. Các phức hợp với 1–5 phân tử BA cho mỗi phân tử IL được giả định trong mô hình hành động khối lượng, trong đó việc hình thành phức hợp phản ứng (BAH)p(IL)(H2O)2 được cho là xảy ra. Đến 10% tổng lượng BA chiết tách được là được chiết tách một cách vật lý bởi dodecane dưới dạng monomer và dimer, trong dung môi. Hàm lượng nước trong pha hữu cơ giảm mạnh với nồng độ BA, điều này là do sự phân tách của các micelle đảo ngược nước-IL do sự hình thành của các phức hợp BAH/IL.
Bài viết này xem xét và thảo luận về những thông tin quan trọng nhất liên quan đến các pha hoạt động khác nhau đã được nghiên cứu cho quá trình đốt cháy soot xúc tác. Nhiều chất xúc tác đã được báo cáo là tăng tốc quá trình đốt cháy soot, bao gồm các công thức chứa kim loại quý, kim loại kiềm và kim loại kiềm thổ, các kim loại chuyển tiếp có khả năng thực hiện các chu trình oxi hóa-khử (V, Mn, Co, Cu, Fe, v.v.), và các kim loại chuyển tiếp bên trong. Chất xúc tác platinum là một trong những chất xúc tác được quan tâm nhiều nhất cho các ứng dụng thực tiễn, và một điểm quan trọng của các chất xúc tác này là các công thức platinum bền với lưu huỳnh đã được chế tạo. Một số chất xúc tác trên cơ sở oxit kim loại cũng xuất hiện như những ứng cử viên đầy hứa hẹn cho việc đốt cháy soot trong các ứng dụng thực tiễn, bao gồm các công thức dựa trên ceria và các oxit hỗn hợp có cấu trúc perovskite và spinel. Một số chất xúc tác oxit kim loại này tạo ra các loài oxy hoạt động rất phản ứng giúp thúc đẩy quá trình đốt cháy soot hiệu quả. Tính ổn định nhiệt là một yêu cầu quan trọng đối với chất xúc tác đốt cháy soot, điều này ngăn cản việc sử dụng thực tiễn của một số chất xúc tác tiềm năng như hầu hết các chất xúc tác kim loại kiềm, muối nóng chảy và clorua kim loại. Một số chất xúc tác kim loại quý cũng không ổn định do sự hình thành các oxit dễ bay hơi (rutheni, iridi và osmium).
Các biosurfactants có những ưu điểm lớn như một sự thay thế thân thiện với môi trường cho các chất hoạt động bề mặt tổng hợp. Các thuộc tính hoạt động bề mặt và hoạt động chống oxi hóa của các chiết xuất được chuẩn bị từ