American Educational Research Journal
SCOPUS (1978,1982,1986,1996-2023)SSCI-ISI
0002-8312
1935-1011
Mỹ
Cơ quản chủ quản: SAGE Publications Ltd , SAGE Publications Inc.
Các bài báo tiêu biểu
Trong bối cảnh các cuộc thảo luận về việc cải thiện giáo dục, đào tạo giáo viên, công bằng và đa dạng, còn rất ít công việc được thực hiện để làm cho sư phạm trở thành một lĩnh vực trung tâm của nghiên cứu. Bài viết này cố gắng thách thức những quan niệm về sự giao thoa giữa văn hóa và giảng dạy, chỉ dựa vào các quan điểm vi phân hoặc vĩ mô. Thay vào đó, bài viết nỗ lực xây dựng dựa trên những công trình đã được thực hiện trong cả hai lĩnh vực này và đề xuất một lý thuyết giáo dục phù hợp với văn hóa. Bằng cách đặt ra những câu hỏi về vị trí của nhà nghiên cứu trong nghiên cứu sư phạm, bài viết cố gắng làm rõ khung lý thuyết của tác giả trong mối quan hệ hợp tác và phản tư của nghiên cứu. Các thực hành sư phạm của tám giáo viên tiêu biểu dạy học sinh người Mỹ gốc Phi phục vụ như là "địa điểm" nghiên cứu. Các thực hành và những suy ngẫm về các thực hành đó cung cấp một cách để định nghĩa và công nhận sư phạm phù hợp với văn hóa.
The topic of how students become self-regulated as learners has attracted researchers for decades. Initial attempts to measure self-regulated learning (SRL) using questionnaires and interviews were successful in demonstrating significant predictions of students’ academic outcomes. The present article describes the second wave of research, which has involved the development of online measures of self-regulatory processes and motivational feelings or beliefs regarding learning in authentic contexts. These innovative methods include computer traces, think-aloud protocols, diaries of studying, direct observation, and microanalyses. Although still in the formative stage of development, these online measures are providing valuable new information regarding the causal impact of SRL processes as well as raising new questions for future study.
Educators and policymakers increasingly pursue programs that aim to strengthen democracy through civic education, service learning, and other pedagogies. Their underlying beliefs, however, differ. This article calls attention to the spectrum of ideas about what good citizenship is and what good citizens do that are embodied in democratic education programs. It offers analyses of a 2-year study of educational programs in the United States that aimed to promote democracy. Drawing on democratic theory and on findings from their study, the authors detail three conceptions of the “good” citizen—personally responsible, participatory, and justice oriented —that underscore political implications of education for democracy. The article demonstrates that the narrow and often ideologically conservative conception of citizenship embedded in many current efforts at teaching for democracy reflects not arbitrary choices but, rather, political choices with political consequences.
This article focuses on mathematical tasks as important vehicles for building student capacity for mathematical thinking and reasoning. A stratified random sample of 144 mathematical tasks used during reform-oriented instruction was analyzed in terms of (a) task features (number of solution strategies, number and kind of representations, and communication requirements) and (b) cognitive demands (e.g., memorization, the use of procedures with [and without] connections to concepts, the “doing of mathematics”). The findings suggest that teachers were selecting and setting up the kinds of tasks that reformers argue should lead to the development of students’ thinking capacities. During task implementation, the task features tended to remain consistent with how they were set up, but the cognitive demands of high-level tasks had a tendency to decline. The ways in which high-level tasks declined as well as factors associated with task changes from the set-up to implementation phase were explored.
Nghiên cứu này đã điều tra cách thức mà các giáo viên sử dụng kiến thức từ nghiên cứu về tư duy toán học của trẻ em và cách thức mà thành tích của học sinh bị ảnh hưởng bởi điều đó. Hai mươi giáo viên lớp một, được phân ngẫu nhiên vào một nhóm thực nghiệm, đã tham gia vào một hội thảo kéo dài một tháng, nơi họ nghiên cứu phân tích dựa trên nghiên cứu về sự phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề của trẻ em trong phép cộng và phép trừ. Các giáo viên lớp một khác (n = 20) được phân ngẫu nhiên vào một nhóm đối chứng. Dù các phương pháp giảng dạy không được quy định cụ thể, nhưng các giáo viên trong nhóm thực nghiệm đã giảng dạy về giải quyết vấn đề nhiều hơn đáng kể và các phép số ít hơn đáng kể so với các giáo viên trong nhóm đối chứng. Các giáo viên trong nhóm thực nghiệm khuyến khích học sinh sử dụng nhiều chiến lược giải quyết vấn đề khác nhau, và họ lắng nghe quá trình mà học sinh sử dụng nhiều hơn đáng kể so với các giáo viên trong nhóm đối chứng. Các giáo viên nhóm thực nghiệm hiểu biết nhiều hơn về các quá trình giải quyết vấn đề của từng học sinh, và họ tin rằng việc giảng dạy nên xây dựng dựa trên kiến thức hiện có của học sinh hơn là các giáo viên trong nhóm đối chứng. Học sinh trong các lớp thực nghiệm đã vượt trội hơn học sinh trong các lớp đối chứng về kiến thức các phép số, khả năng giải quyết vấn đề, mức độ hiểu biết được báo cáo, và sự tự tin được báo cáo trong khả năng giải quyết vấn đề của họ.
The purpose of this investigation is to examine empirical support for the internal/external (I/E) frame of reference model that describes the relation between Verbal and Math self-concepts, and between these academic self-concepts and verbal and math achievement. The empirical tests are based on all studies (n = 6,010; age range = 7–35+ years) that have employed the Self Description Questionnaire (SDQ), SDQII, or SDQ III self-concept instruments. The I/E model posits, for example, that a high Math self-concept is more likely when math skills are good relative to those of peers (an external comparison) and when math skills are better than verbal skills (an internal comparison). Consistent with the model and empirical findings, (a) Verbal and Math self-concepts are nearly uncorrelated with each other even though verbal and math achievement indicators are substantially correlated with each other and with the matching areas of self-concept; (b) the direct effects of math achievement on Verbal self-concept, and of verbal achievement on Math self-concept, are both negative. For inferred self-concepts based on the ratings of external observers, the external process seems to operate, but not the internal process. The findings demonstrate that academic self-concepts are affected by different processes than are the academic achievement areas they reflect and the inferred self-concepts offered by external observers.
This study tested whether students who learned with an active orientation would be more intrinsically motivated to learn and would learn more than students who learned with a passive orientation. The active orientation was created by having subjects learn material with the expectation of teaching it to another student; the passive orientation was created by having subjects learn the same material with the expectation of being tested on it. The results indicate that subjects who learned in order to teach were more intrinsically motivated, had higher conceptual learning scores, and perceived themselves to be more actively engaged with the environment than subjects who learned in order to be examined. The two groups were equal, however, in their rote learning scores. The effects of exposure to the material were ruled out as an explanation because the two groups reported spending equal time with the material. The results are discussed in terms of intrinsic motivation theory.
Researchers have been challenged to go beyond socioeconomic status in the search for school-level characteristics that make a difference in student achievement. The purpose of the present study was to identify a new construct, academic optimism, and then use it to explain student achievement while controlling for socioeconomic status, previous achievement, and urbanicity. The study focused on a diverse sample of 96 high schools. A random sample of teachers from each school provided data on the school’s academic optimism, and student achievement scores and demographic characteristics were obtained from the state department of education. A confirmatory factor analysis and hypothesis tests were conducted simultaneously via structural equation modeling. As predicted, academic optimism made a significant contribution to student achievement after controlling for demographic variables and previous achievement. The findings support the critical nature of academic optimism.
Ethnic minority students are at risk for school failure and show a heightened susceptibility to negative teacher expectancy effects. In the present study, whether the prejudiced attitudes of teachers relate to their expectations and the academic achievement of their students is examined. The prejudiced attitudes of 41 elementary school teachers were assessed via self-report and an Implicit Association Test. Teacher expectations and achievement scores for 434 students were obtained. Multilevel analyses showed no relations with the self-report measure of prejudiced attitudes. The implicit measure of teacher prejudiced attitudes, however, was found to explain differing ethnic achievement gap sizes across classrooms via teacher expectations. The results of this study also suggest that the use of implicit attitude measures may be important in educational research.