Ung thư nội mạc tử cung là gì? Các công bố khoa học về Ung thư nội mạc tử cung

Ung thư nội mạc tử cung, hay còn được gọi là ung thư tử cung, là một loại ung thư phát triển từ các tế bào nội mạc tử cung, tức là lớp mô mỏng bên trong tử cung...

Ung thư nội mạc tử cung, hay còn được gọi là ung thư tử cung, là một loại ung thư phát triển từ các tế bào nội mạc tử cung, tức là lớp mô mỏng bên trong tử cung. Đây là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ. Ung thư nội mạc tử cung có thể chia thành hai dạng chính là ung thư tế bào biểu mô (endometrial adenocarcinoma) và ung thư ống tử cung (endometrial serous carcinoma).

Các yếu tố có thể gia tăng nguy cơ mắc ung thư nội mạc tử cung gồm: tuổi tác trên 50, tăng sản lượng hormone nữ estrogen, tiền sử ungp thư tử cung trong gia đình, béo phì, chưa có con hoặc chưa từng mang thai, tiền sử bệnh lý tử cung, tiểu đường, tăng huyết áp, dùng hormone thay thế sau mãn kinh,...

Các triệu chứng của ung thư nội mạc tử cung có thể bao gồm: chảy máu âm đạo sau mãn kinh, chảy máu âm đạo không liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt, chảy màu nâu, đau bụng dưới, sự thay đổi của kích thước tử cung.

Việc chẩn đoán ung thư nội mạc tử cung thường được thực hiện bằng việc thăm khám tử cung và các thủ thuật nội soi giúp lấy mẫu tế bào để kiểm tra. Phương pháp điều trị phụ thuộc vào giai đoạn của ung thư, nhưng thường bao gồm phẫu thuật, hóa trị, và xạ trị.
Ung thư nội mạc tử cung là loại ung thư phát triển từ tế bào nội mạc tử cung, tức là lớp mô mỏng bên trong của tử cung. Lớp này thường bị tác động bởi hormone estrogen và progesterone trong quá trình chu kỳ kinh nguyệt. Khi tạo ra quá nhiều estrogen mà không có đủ progesterone điều chỉnh, các tế bào trong nội mạc tử cung có thể phát triển không đúng cách, dẫn đến sự hình thành khối u và tiềm năng gây ung thư.

Các yếu tố tăng nguy cơ mắc ung thư nội mạc tử cung bao gồm:
1. Tuổi tác trên 50: Nguy cơ cao hơn ở phụ nữ sau tuổi mãn kinh.
2. Tăng sản lượng hormone nữ estrogen:
- Béo phì: Mỡ cơ thể có thể tổng hợp estrogen, gây tăng nguy cơ mắc ung thư tử cung.
- Sử dụng hormone thay thế sau mãn kinh: Estrogen tổng hợp từ các thuốc hormone thay thế có thể tăng nguy cơ.
- Tiền sử dùng thuốc chống tránh thai chứa estrogen lâu dài.
3. Tiền sử ung thư tử cung trong gia đình: Có thể do di truyền hoặc do cùng chia sẻ các yếu tố nguy cơ khác.
4. Chưa có con hoặc chưa từng mang thai: Mang thai góp phần điều chỉnh cấu trúc và hoạt động của tử cung, làm giảm nguy cơ mắc ung thư tử cung.
5. Tiền sử bệnh lý tử cung: Các bệnh tử cung như tuyến tử cung có biểu hiện tăng nguy cơ mắc ung thư tử cung.
6. Tiểu đường: Nguy cơ mắc ung thư tử cung tăng ở phụ nữ mắc tiểu đường, đặc biệt nếu không được kiểm soát tốt.
7. Tăng huyết áp: Tăng nguy cơ mắc ung thư tử cung ở phụ nữ bị tăng huyết áp.

Các triệu chứng của ung thư nội mạc tử cung có thể bao gồm:
- Chảy máu âm đạo sau mãn kinh.
- Chảy máu âm đạo không liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt.
- Chảy màu nâu.
- Đau bụng dưới.
- Sự thay đổi kích thước tử cung.

Việc chẩn đoán ung thư nội mạc tử cung thường bao gồm:
- Thăm khám tử cung: Bác sĩ sẽ tiến hành kiểm tra tử cung bằng tay để tìm hiểu về kích thước và cấu trúc tử cung.
- Siêu âm tử cung: Sử dụng sóng siêu âm để xem sự thay đổi kích thước, cấu trúc và các khối u trong tử cung.
- Nội soi tử cung (hysteroscopy) và lấy mẫu tế bào: Bác sĩ sẽ thực hiện nội soi để kiểm tra bên trong tử cung và lấy mẫu tế bào cho kiểm tra vi trùng.
- Xét nghiệm tế bào tử cung (Pap smear): Xác định có bất thường tế bào không.

Phương pháp điều trị ung thư nội mạc tử cung phụ thuộc vào giai đoạn của bệnh. Các phương pháp điều trị có thể bao gồm:
- Phẫu thuật: Loại bỏ toàn bộ tử cung (hysteorectomy) hoặc chỉ loại bỏ một phần tử cung (từng - orxection) và các mô bất thường xung quanh.
- Hóa trị: Sử dụng thuốc trị ung thư để giết chết tế bào ung thư.
- Xạ trị: Sử dụng tia X hoặc gamma để tiêu diệt tế bào ung thư.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ung thư nội mạc tử cung":

Điều chỉnh tình dục sau điều trị ung thư cổ tử cung và nội mạc tử cung: cái nhìn định tính Dịch bởi AI
Psycho-Oncology - Tập 12 Số 3 - Trang 267-279 - 2003
Tóm tắt

Số lượng bệnh nhân sống sót lâu dài sau ung thư cổ tử cung và nội mạc tử cung đang ngày càng gia tăng, trong đó chất lượng cuộc sống đóng vai trò quan trọng. Chúng tôi đã phỏng vấn 20 phụ nữ (trong độ tuổi từ 19-64) để khám phá các động lực và thành phần của sự điều chỉnh tình dục sau điều trị cũng như tác động của nó đến chất lượng cuộc sống. Việc phân tầng theo điều trị (chỉ phẫu thuật, phẫu thuật cộng với xạ trị ngoài, phẫu thuật cộng với xạ trị nội bào, và phẫu thuật cộng với xạ trị ngoài và xạ trị nội bào) và thời gian kể từ khi điều trị (ngay sau điều trị, trong 2 năm tiếp theo và sau đó) đã được thực hiện để đảm bảo đại diện cho tất cả các trải nghiệm và quan điểm liên quan, đồng thời cho phép thời gian để bất kỳ tác dụng phụ dài hạn nào xuất hiện. Phần mềm NUD*IST (Dữ liệu Phi số lượng Không cấu trúc bằng cách Lập chỉ mục, Tìm kiếm và Lý thuyết hóa) đã được sử dụng để hỗ trợ mã hóa các cuộc phỏng vấn được ghi âm và phiên dịch, cũng như tìm kiếm các chủ đề và đoạn văn. Mặc dù dữ liệu đã hỗ trợ các phát hiện đã được báo cáo trong tài liệu, những chủ đề mới quan trọng đã xuất hiện trong quá trình phân tích định tính. Những chủ đề này bao gồm: (a) các vấn đề liên quan đến việc trở nên 'phụ nữ', (b) vai trò của sự thân mật trong điều chỉnh sau điều trị và (c) tầm quan trọng của việc giao tiếp giữa các chuyên gia y tế, bệnh nhân và bạn đời. Một mô hình được trình bày để tích hợp những vấn đề này và nhấn mạnh sự cần thiết của các can thiệp hiệu quả nhằm cải thiện kết quả sau điều trị. Đề xuất cung cấp thông tin, hỗ trợ và điều chỉnh các thiết bị phục hồi chức năng.

Kích thích buồng trứng có kiểm soát và bổ sung progesterone ảnh hưởng đến vi sinh vật âm đạo và nội mạc tử cung trong các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm: một nghiên cứu thí điểm Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 37 Số 9 - Trang 2315-2326 - 2020
Tóm tắt Mục đích

Kích thích buồng trứng có kiểm soát (COS) và bổ sung progesterone (P) có làm thay đổi vi sinh vật âm đạo và nội mạc tử cung ở phụ nữ tiến hành thụ tinh ống nghiệm không?

Phương pháp

Mười lăm phụ nữ đã được phân tích vi sinh vật tại hai thời điểm: trong một lần chuyển phôi giả được thực hiện ở giai đoạn hoàng thể của chu kỳ trước COS, và tại thời điểm chuyển phôi tươi (ET). Một mẫu dịch âm đạo và đầu xa của ống chuyển phôi được phân tích bằng phương pháp giải trình tự gen 16SrRNA thế hệ mới. Sự đa dạng của vi sinh vật được đánh giá dựa trên cả chỉ số tương đồng Bray-Curtis và chỉ số đa dạng Shannon.

Kết quả

Lactobacillus là chi phổ biến nhất trong các mẫu âm đạo, mặc dù tỷ lệ tương đối của nó đã giảm do COS kết hợp với bổ sung P (71.5 ± 40.6% so với 61.1 ± 44.2%). Trong âm đạo, đã quan sát thấy sự gia tăng các loài gây bệnh, liên quan đến Prevotella (3.5 ± 8.9% so với 12.0 ± 19.4%), và Escherichia coli-Shigella spp. (1.4 ± 5.6% so với 2.0 ± 7.8%). Ở nội mạc tử cung, tỷ lệ Lactobacilli giảm nhẹ (27.4 ± 34.5% so với 25.0 ± 29.9%); ngược lại, cả PrevotellaAtopobium đều tăng lên (3.4 ± 9.5% so với 4.7 ± 7.4% và 0.7 ± 1.5% so với 5.8 ± 12.0%). Tại cả hai vị trí, sự đa dạng sinh học cao hơn được quan sát thấy sau khi COS (p < 0.05), đặc biệt là trong vi sinh vật nội mạc tử cung, được xác nhận bởi phân tích Bray-Curtis về khoảng cách phát sinh chủng giữa các chi vi khuẩn. Phân tích Bray-Curtis cũng xác nhận sự khác biệt đáng kể cho các mẫu nội mạc tử cung-âm đạo ghép đôi tại mỗi thời điểm.

#Kích thích buồng trứng có kiểm soát #bổ sung progesterone #vi sinh vật âm đạo #vi sinh vật nội mạc tử cung #thụ tinh ống nghiệm
Điều trị phẫu thuật u lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương
Tạp chí Phụ Sản - Tập 16 Số 1 - Trang 111 - 116 - 2018
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của u LNMTC ở buồng trứng phẫu thuật tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương 11/2016 đến 8/2017. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Cỡ mẫu: 41 bệnh nhân. Tiêu chuẩn chọn: bệnh nhân chẩn đoán đại thể trong phẫu thuật là u LNMTC BT: trong khối u có dịch màu socola; thời gian: từ 11/2016 đến 8/2017; Phương pháp: mô tả tiến cứu. Kết quả: Bệnh nhân có con chiếm tỉ lệ 58,54%, có tiền sử phẫu thuật LNMTC ở buồng trứng là 9,76%; Đau bụng kinh chiếm tỉ lệ cao nhất là 58,54%; Có 58,50% có u ở bên phải, bên trái là 24,4%, u hai bên là 17,1; Trên siêu âm kích thước khối u ≤ 60 mm: 61%; CA-125 > 35 là 83,78%; Dính nặng với tỉ lệ 75,61%, dính trung bình là 19,51%, dính nhẹ 4,88%; Chủ yếu là phẫu thuật nội soi (92,68%). Bóc nang: 70,73%, cắt u: 29,27%; Giải phẫu bệnh lý không thấy tổn thương lạc nội mach tử cung 24,39%, tổn thương lạc nội mạc tử cung ở nơi khác 17,07%.
#U lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng #bóc tách u #cắt buồng trứng.
Xây dựng và xác thực mô hình dự đoán tiên lượng cùng các đặc điểm lâm sàng cho ung thư buồng trứng mô nội mạc: một nghiên cứu theo nhóm dựa trên SEER Dịch bởi AI
Journal of Cancer Research and Clinical Oncology - Tập 149 Số 15 - Trang 13607-13618 - 2023
Tóm tắt Đặt vấn đề

Ung thư buồng trứng mô nội mạc (OEC) là loại u ác tính mô biểu mô buồng trứng thường gặp thứ hai, nhưng các yếu tố tiên lượng liên quan vẫn chưa rõ ràng. Nghiên cứu này nhằm phân tích các yếu tố tiên lượng độc lập cho bệnh nhân mắc OEC và phát triển, xác thực một mô hình nomogram để dự đoán tỷ lệ sống còn tổng quát (OS) của các bệnh nhân này.

Phương pháp

Thông tin lâm sàng của các bệnh nhân mắc OEC (2000–2019) được thu thập từ cơ sở dữ liệu Giám sát, Dịch tễ học và Kết quả (SEER). Phân tích Cox đơn biến và đa biến được sử dụng để xác định các yếu tố tiên lượng độc lập, và các mô hình nomogram được xây dựng dựa trên các yếu tố tiên lượng độc lập. Đường cong đặc hiệu cho người nhận (ROC), biểu đồ hiệu chỉnh, và phân tích đường cong quyết định (DCA) được sử dụng để xác minh độ chính xác và tính hợp lệ của mô hình nomogram. Đường cong Kaplan–Meier được sử dụng để so sánh sự khác biệt về OS và tỷ lệ sống cụ thể với ung thư (CSS) giữa các nhóm con.

#Ung thư buồng trứng #mô nội mạc #yếu tố tiên lượng #mô hình nomogram #SEER.
Đặc điểm nội mạc tử cung và các yếu tố liên quan trong chu kỳ thụ tinh nhân tạo
Tạp chí Phụ Sản - Tập 19 Số 3 - Trang 39-47 - 2021
Mục tiêu: Tìm hiểu đặc điểm và các yếu tố liên quan đến tình trạng nội mạc tử cung trong chu kỳ thụ tinh nhân tạo, đồng thời khảo sát ảnh hưởng của độ dày nội mạc tử cung đến sự thành công của phương pháp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:Nghiên cứu mô tả cắt ngang các cặp vợ chồng vô sinh được điều trị bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo bơm tinh trùng vào buồng tử cung, tại Trung tâm Nội tiết sinh sản và Vô sinh - Bệnh viện Trường Đại học Y - Dược Huế trong thời gian từ tháng 08 năm 2018 đến tháng 04 năm 2021. Sau khi thu thập thông tin hành chính, thăm khám lâm sàng và cận lâm sàng cho cặp vợ chồng hiếm muộn thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ, theo dõi nang noãn và thực hiện kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung, xét nghiệm beta-hCG máu sau bơm 2 tuần và siêu âm thai 2 tuần sau khi thử thai dương tính. Kết quả: Phác đồ kích thích buồng trứng và việc bổ sung estrogen trong các chu kỳ theo dõi nang noãn tác động có ý nghĩa lên độ dày nội mạc. Độ dày nội mạc có mối liên quan đáng kể đến sự thành công của kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung. Ngưỡng độ dày nội mạc tử cung 8,65mm có thể tiên lượng kết quả có thai với độ nhạy là 61,5% và độ đặc hiệu là 63,5%, AUC = 61,6%, p < 0,05. Bên cạnh đó, một số yếu tố người vợ, độ tuổi của người chồng có ảnh hưởng bất lợi đến kết quả có thai. Kết luận: Kích thích buồng trứng trong chu kỳ thụ tinh nhân tạo có liên quan đến độ dày của nội mạc. Đặc điểm độ dày nội mạc tử cung là một yếu tố có khả năng tiên lượng kết quả có thai sau thụ tinh nhân tạo.
#độ dày nội mạc tử cung #thụ tinh nhân tạo #bơm tinh trùng vào buồng tử cung #IUI #yếu tố ảnh hưởng
Đặc điểm nội mạc tử cung và các yếu tố liên quan trong chu kỳ thụ tinh nhân tạo
Tạp chí Phụ Sản - Tập 19 Số 3 - Trang 39-47 - 2021
Mục tiêu: Tìm hiểu đặc điểm và các yếu tố liên quan đến tình trạng nội mạc tử cung trong chu kỳ thụ tinh nhân tạo, đồng thời khảo sát ảnh hưởng của độ dày nội mạc tử cung đến sự thành công của phương pháp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:Nghiên cứu mô tả cắt ngang các cặp vợ chồng vô sinh được điều trị bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo bơm tinh trùng vào buồng tử cung, tại Trung tâm Nội tiết sinh sản và Vô sinh - Bệnh viện Trường Đại học Y - Dược Huế trong thời gian từ tháng 08 năm 2018 đến tháng 04 năm 2021. Sau khi thu thập thông tin hành chính, thăm khám lâm sàng và cận lâm sàng cho cặp vợ chồng hiếm muộn thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ, theo dõi nang noãn và thực hiện kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung, xét nghiệm beta-hCG máu sau bơm 2 tuần và siêu âm thai 2 tuần sau khi thử thai dương tính. Kết quả: Phác đồ kích thích buồng trứng và việc bổ sung estrogen trong các chu kỳ theo dõi nang noãn tác động có ý nghĩa lên độ dày nội mạc. Độ dày nội mạc có mối liên quan đáng kể đến sự thành công của kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung. Ngưỡng độ dày nội mạc tử cung 8,65mm có thể tiên lượng kết quả có thai với độ nhạy là 61,5% và độ đặc hiệu là 63,5%, AUC = 61,6%, p < 0,05. Bên cạnh đó, một số yếu tố người vợ, độ tuổi của người chồng có ảnh hưởng bất lợi đến kết quả có thai. Kết luận: Kích thích buồng trứng trong chu kỳ thụ tinh nhân tạo có liên quan đến độ dày của nội mạc. Đặc điểm độ dày nội mạc tử cung là một yếu tố có khả năng tiên lượng kết quả có thai sau thụ tinh nhân tạo.
#độ dày nội mạc tử cung #thụ tinh nhân tạo #bơm tinh trùng vào buồng tử cung #IUI #yếu tố ảnh hưởng
Dẫn truyền hạch bạch huyết gốc trong ung thư nội mạc tử cung sau khi cắt tử cung trên cổ Dịch bởi AI
Annals of Surgical Oncology - Tập 29 Số 1 - Trang 683-683 - 2022
Tóm tắt Nền tảng

Ung thư nội mạc tử cung kín sau khi cắt tử cung trên cổ là điều không phổ biến. Mặc dù vẫn chưa có phương pháp quản lý tối ưu cho những trường hợp hiếm này, nhưng việc đánh giá lại giai đoạn bệnh nên được khuyến nghị trong tình huống này để xác định nhu cầu điều trị hỗ trợ.

Phương pháp

Nghiên cứu đã được ủy ban đạo đức của viện thông qua (DIPUSVSP-27-07-20107). Chúng tôi báo cáo trường hợp của một phụ nữ 52 tuổi bị ung thư nội mạc tử cung ác tính grade 2 loại nội mạc (pT1a) với rìa phẫu thuật âm tính và cơ tử cung mịn với tiềm năng ác tính không rõ sau khi thực hiện cắt tử cung trên cổ và cắt bỏ hai vòi trứng buồng trứng để điều trị đau vùng chậu và u xơ tử cung tại một bệnh viện địa phương. Chụp CT trước phẫu thuật vùng ngực, bụng và khung chậu không cho thấy bất kỳ lymphadenopathy hoặc di căn xa nào. Siêu âm khung chậu cho thấy gốc tử cung bình thường và một nốt hypoechoic kích thước 18-mm ở bên phải vùng quanh tử cung. Chúng tôi mô tả tính khả thi của việc xác định hạch bạch huyết gốc qua nội soi với việc tiêm indocyanine green vào gốc tử cung.

#Ung thư nội mạc tử cung #Cắt tử cung trên cổ #Dẫn truyền hạch bạch huyết gốc #Liệu pháp hỗ trợ #Hạch bạch huyết #Nội soi
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ NỘI MẠC TỬ CUNG TÁI PHÁT BẰNG PHÁC ĐỒ PACLITAXEL CARBOPLATN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Nhận xét kết quả điều trị ung thư nội mạc tử cung tái phát bằng phác đồ paclitaxel carboplatin và một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu kết hợp tiến cứu trên 54 bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung tái phát, tại bệnh viên K. Kết quả: Đáp ứng chung 75,9% trong đó đáp ứng hoàn toàn 31,5%; đáp ứng một phần 44,4%, bệnh giữ nguyên 11,1% và 13%  bệnh tiến triển. Trung vị thời gian sống thêm bệnh không tiến triển là 6 tháng. Trung vị thời gian sống thêm bệnh không tiến triển nhóm chưa từng điều trị hóa chất cao hơn nhóm đã từng điều trị hóa chất (10 tháng so với 6 tháng, p= 0,041). Kết luận: Phác đồ phối hợp Paclitaxel Carboplatin có hiệu quả trên bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung tái phát. Nhóm chưa điều trị hóa chất có gian sống thêm bệnh không tiến triển dài hơn nhóm đã từng điều trị hóa chất.
#Ung thư nội mạc tử cung tái phát
Đặc điểm lâm sàng giải phẫu bệnh ung thư nguyên phát đồng thời ở tử cung và buồng trứng
Tạp chí Phụ Sản - Tập 16 Số 1 - Trang 122 - 126 - 2018
Mục tiêu: Xác định đặc điểm lâm sàng và giải phẫu bệnh các trường hợp ung thư nguyên phát đồng thời ở nội mạc tử cung và ở buồng trứng. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện dựa trên bệnh án của 27 người bệnh đã được chẩn đoán là ung thư đồng thời nội mạc tử cung và buồng trứng nguyên phát từ năm 2002 đến năm 2017. Kết quả và kết luận: Tuổi trung bình của người bệnh ở thời điểm chẩn đoán là 49. Các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu, ra máu âm đạo bất thường là dấu hiệu phổ biến nhất (70,4%). Nồng độ CA-125 tăng ở hầu hết các trường hợp (86,7%), nồng độ CA-125 trung bình là 173,7U/ml. Siêu âm phát hiện 21 trường họp có u tiểu khung (77,8%), 20 trường hợp nội mạc tử cung dày hoặc có u (40,7%) và 16 trường hợp thấy dịch cổ chướng (59,3%). Ung thư týp dạng nội mạc ở tử cung gặp phổ biến nhất (70,4%), tiếp theo là týp thanh dịch (18,5%), tế bào sáng (7,4 %), và ung thư biểu mô liên kết (3,7%). Đối với ung thư buồng trứng, hai týp mô bệnh học phổ biến là ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc và ung thư biểu mô tuyến thanh dịch có tỷ lệ lần lượt là 63,0% và 22,2%. Hầu hết các trường hợp được chẩn đoán ở giai đoạn sớm, 20 trường hợp ung thư nội mạc tử cung ở giai đoạn I (74,1%), 23 trường hợp ung thư buồng trứng ở giai đoạn I (85,2%).
#ung thư đồng thời #Ung thư tuyến nội mạc tử cung #ung thư buồng trứng.
Xây dựng hệ thống điểm rủi ro miễn dịch mới liên quan đến tế bào T CD8+ trong ung thư nội mạc tử cung Dịch bởi AI
Cancer Cell International - Tập 23 Số 1
Tóm tắt Đặt vấn đề

Ung thư nội mạc tử cung (UCEC) là một loại khối u ác tính phụ khoa có tỷ lệ mắc cao và tiên lượng kém. Mặc dù liệu pháp miễn dịch đã mang lại những lợi ích sống sót đáng kể cho bệnh nhân UCEC giai đoạn muộn, nhưng các chỉ báo đánh giá truyền thống không thể xác định chính xác tất cả các đối tượng có khả năng hưởng lợi từ liệu pháp miễn dịch. Do đó, cần thiết phải xây dựng một hệ thống chấm điểm mới để dự đoán tiên lượng bệnh nhân và khả năng đáp ứng với liệu pháp miễn dịch.

Phương pháp

CIBERSORT kết hợp với phân tích mạng đồng biểu hiện gen có trọng số (WGCNA), phân tích phân tích ma trận phi âm (NMF) và thuật toán rừng ngẫu nhiên để sàng lọc module liên quan đến tế bào T CD8+, và các gen chính liên quan đến tiên lượng đã được chọn ra bằng phân tích đơn biến, nhà điều hành co giãn tối thiểu tuyệt đối (LASSO) và phân tích hồi quy Cox đa biến để phát triển điểm rủi ro miễn dịch mới (NIRS). Phân tích Kaplan-Maier (K-M) được sử dụng để so sánh sự khác biệt về sống sót giữa nhóm NIRS cao và thấp. Chúng tôi cũng đã khám phá mối tương quan giữa NIRS, xâm nhập miễn dịch và liệu pháp miễn dịch, và ba bộ xác thực bên ngoài đã được sử dụng để xác minh hiệu suất dự đoán của NIRS. Hơn nữa, phân tích nhóm lâm sàng, phân tích đột biến, biểu hiện khác biệt của các điểm kiểm soát miễn dịch và phân tích độ nhạy thuốc đã được thực hiện để tạo ra các liệu pháp cá nhân hóa cho bệnh nhân với các điểm rủi ro khác nhau. Cuối cùng, phân tích biến thiên tập hợp gen (GSVA) được thực hiện để khám phá các chức năng sinh học của NIRS, và qRT-PCR đã được áp dụng để xác minh sự biểu hiện khác biệt của ba gen đặc trưng ở cấp độ tế bào và mô.

Tổng số: 71   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 8