Decitabine là gì? Các công bố khoa học về Decitabine
Decitabine là một chất đối tác của cytidine analog được sử dụng trong điều trị một số loại ung thư, chủ yếu là ung thư tủy xương. Nó hoạt động bằng cách ức chế ...
Decitabine là một chất đối tác của cytidine analog được sử dụng trong điều trị một số loại ung thư, chủ yếu là ung thư tủy xương. Nó hoạt động bằng cách ức chế hoạt động của các enzyme DNA methyltransferase, giúp làm giảm hoặc ngăn chặn sự methyl hóa DNA. Điều này có thể giúp khôi phục hoạt động bình thường của gene, làm giảm tăng trưởng tế bào ung thư và thúc đẩy quá trình tự diệt các tế bào ung thư.
Decitabine (tên thương hiệu là Dacogen) là một chất chống ung thư thuộc nhóm tương tự nucleoside. Nó là một nucleoside cytidine analog với cấu trúc kháng-thanh phân của DNA. Được điều chế để có thể uống (dưới dạng viên nén) hoặc tiêm vào tĩnh mạch.
Khi được sử dụng trong điều trị ung thư tủy xương, decitabine đóng vai trò là một tác động épigenetic DNA. Nó hoạt động bằng cách ức chế hoạt động của các enzyme DNA methyltransferase, đặc biệt là DNA methyltransferase 1 (DNMT1). Enzyme này thông thường có nhiệm vụ thêm các nhóm methyl vào vùng CpG (Một loại vùng đặc biệt trong DNA) để gắn kết các protein nhất định. Sự phân tâm methyl trong vùng CpG có thể tắt hoạt động của gene, gây ra sự bất thường trong quá trình điều chỉnh của tế bào và dẫn đến sự phát triển của ung thư.
Bằng cách ngăn chặn sự methyl hóa DNA, decitabine có thể làm giảm tăng trưởng tế bào ung thư, gây ra tử vong và thậm chí thúc đẩy quá trình tự diệt tế bào ung thư. Ngoài ra, decitabine cũng có thể có tác dụng kích thích sự phát triển của các tế bào phôi nguyên sinh, sự phân hóa và sự hình thành tế bào máu thông qua cơ chế chưa được rõ ràng.
Decitabine thường được sử dụng trong điều trị bệnh Acute Myelogenous Leukemia (AML), Myelodysplastic Syndromes (MDS), và Chronic Myelomonocytic Leukemia (CMML). Dưới hình thức tiêm vào tĩnh mạch, decitabine thường được cung cấp trong một chu kỳ liều lượng kéo dài qua 3-5 ngày với mỗi chu kỳ kéo dài từ 4-6 tuần.
Tuy nhiên, như với bất kỳ loại thuốc nào, decitabine cũng có thể gây ra tác dụng phụ. Một số tác dụng phụ phổ biến bao gồm mệt mỏi, buồn nôn, nôn mửa, suy giảm tiểu cầu và bạch cầu, hạ huyết áp và rất hiếm khi gây ra tăng tử vong. Quan trọng nhất là decitabine chỉ nên sử dụng dưới sự giám sát của một bác sĩ chuyên khoa có kinh nghiệm trong điều trị ung thư.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "decitabine":
Để xác định liều sinh học tối ưu (OBD) của decitabine như một tác nhân đơn lẻ và sau đó là liều tối đa có thể chịu đựng (MTD) của axit valproic (VA) kết hợp với decitabine trong bệnh bạch cầu cấp myeloid (AML).
Hai mươi lăm bệnh nhân (tuổi trung bình, 70 tuổi) đã được đưa vào nghiên cứu; 12 bệnh nhân chưa điều trị và 13 bệnh nhân đã tái phát AML. Để xác định OBD (dựa trên một điểm kết thúc tái biểu hiện gen), 14 bệnh nhân đã nhận decitabine đơn độc trong 10 ngày. Để xác định MTD, 11 bệnh nhân nhận decitabine (tại OBD, ngày 1 đến 10) cộng với VA tăng liều (ngày 5 đến 21).
OBD của decitabine là 20 mg/m2/d tiêm tĩnh mạch, với độc tính không huyết học hạn chế. Ở những bệnh nhân được điều trị với decitabine cộng với VA, bệnh não do thuốc xảy ra ở hai bệnh nhân trong số hai bệnh nhân tại VA 25 mg/kg/d và một trong sáu bệnh nhân tại VA 20 mg/kg/d. Sự tái biểu hiện thụ thể estrogen (ER) do thuốc gây ra có liên quan đến phản ứng lâm sàng (P ≤ .05). Sự khử methyl promoter ER, hypomethylation DNA toàn cầu, suy giảm enzym DNA methyltransferase và hyperacetylation histone cũng đã được quan sát. Trong một phân tích theo ý định điều trị, tỷ lệ phản ứng là 44% (11 trong số 25). Trong số 21 bệnh nhân có thể đánh giá, 11 (52%) đã đáp ứng: bốn bệnh nhân có hồi phục hoàn toàn về hình thái và tế bào học (CR; mỗi bệnh nhân có kiểu gen phức tạp), bốn bệnh nhân có CR không hoàn chỉnh, và ba bệnh nhân có hồi phục từng phần. Trong số AML chưa được điều trị, bốn trong chín bệnh nhân có thể đánh giá đã đạt CR. Các phản ứng lâm sàng dường như tương tự cho decitabine đơn độc hoặc với VA.
Decitabine liều thấp là an toàn và cho thấy hoạt động lâm sàng và sinh học đầy hứa hẹn trong AML, nhưng việc thêm VA dẫn đến bệnh não ở liều tương đối thấp. Dựa trên các kết quả này, cần nghiên cứu thêm về decitabine (20 mg/m2/d trong 10 ngày) đơn độc hoặc kết hợp với một tác nhân khử axetat thay thế.
Thiếu các liệu pháp điều trị hàng thứ hai cho ung thư buồng trứng tái phát cần thiết phải phát triển các liệu pháp kết hợp được cải thiện. Liệu pháp nhắm đích và liệu pháp miễn dịch mỗi loại đều mang lại lợi ích lâm sàng, mặc dù hạn chế khi làm liệu pháp đơn. Ung thư buồng trứng không đặc biệt nhạy cảm với sự chặn điểm kiểm soát miễn dịch, vì vậy việc kết hợp với liệu pháp bổ sung có thể có lợi. Các nghiên cứu gần đây đã tiết lộ rằng một chất ức chế methyltransferase DNA, azacytidine, làm thay đổi sự biểu hiện của các gen điều hòa miễn dịch trong ung thư buồng trứng. Trong nghiên cứu này, các tác động chống khối u của một chất ức chế methyltransferase DNA liên quan, decitabine (DAC), đã được chứng minh trong một mô hình ung thư buồng trứng ở chuột đồng huyết. Điều trị DAC liều thấp làm tăng sự biểu hiện của các chemokine thu hút tế bào NK và tế bào T CD8+, thúc đẩy sự sản xuất IFNγ và TNFα của chúng, và kéo dài sự sống của chuột mang khối u dưới da hoặc khối u tại chỗ. Mặc dù cả DAC và sự chặn điểm kiểm soát miễn dịch đều không mang lại phản ứng bền vững khi làm liệu pháp đơn trong mô hình này, hiệu quả của kháng thể chống–CTLA-4 đã được tăng cường khi kết hợp với DAC. Sự kết hợp này thúc đẩy sự phân hóa của các tế bào T chưa trưởng thành thành tế bào T hiệu ứng và kéo dài phản ứng của tế bào lymphocyte phá hủy cũng như sự sống sót của chuột. Những kết quả này gợi ý rằng liệu pháp kết hợp này có thể xứng đáng được xem xét thêm để cải thiện điều trị ung thư buồng trứng kháng thuốc.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10