Sorafenib là gì? Các công bố khoa học về Sorafenib
Sorafenib là một loại thuốc được sử dụng để điều trị ung thư gan không chức năng hoặc ung thư tế bào thận tuyến trên một số bệnh nhân. Đó là một loại thuốc chủ ...
Sorafenib là một loại thuốc được sử dụng để điều trị ung thư gan không chức năng hoặc ung thư tế bào thận tuyến trên một số bệnh nhân. Đó là một loại thuốc chủ vị tyrosine kinase inhibitor (TKI), hoạt động bằng cách ngăn chặn sự phát triển và mở rộng của các tế bào ung thư. Điều này có thể giúp kiểm soát sự phát triển của khối u và làm chậm tốc độ tiến triển của bệnh. Sorafenib được uống dưới dạng viên nang và chỉ được sử dụng theo sự chỉ định của bác sĩ.
Sorafenib là một chất ức chế tyrosine kinase inhibitor (TKI) hỗ trợ điều trị ung thư gan không chức năng (hepatocellular carcinoma - HCC) và ung thư tuyến thận (renal cell carcinoma - RCC).
Cơ chế tác động của sorafenib là ức chế hoạt động của các protein kinases nằm trong hệ thống RAF/MEK/ERK và kinases chuyển đổi thụ thể receptor tyrosine kinase (RTK) như VEGFR (vascular endothelial growth factor receptor), PDGFR (platelet-derived growth factor receptor), FLT3 (FMS-like tyrosine kinase 3) và c-Kit.
VEGFR và PDGFR có vai trò quan trọng trong tạo mạch máu bổ sung và bảo vệ các tế bào ung thư. Sorafenib không cho phép tiếp tục tạo mạch máu mới vào khối u và giảm sự phát triển của khối u. Ngoài ra, sorafenib còn có khả năng trung hòa các rụng tế bào và thụ thể VEGFR-2 trên mô bám.
Sorafenib thường được dùng dưới dạng viên nén uống, mỗi viên 200mg, và dùng một hoặc hai lần mỗi ngày. Liều lượng được tùy chỉnh theo tình trạng thể chất và phản ứng của bệnh nhân.
Một số tác dụng phụ của sorafenib có thể bao gồm mệt mỏi, hạ huyết áp, tăng cân, tăng men gan và hội chứng Hand-Foot (làm sưng và đau lên lòng bàn tay và bàn chân). Một số tác dụng phụ nghiêm trọng hơn có thể bao gồm rối loạn hệ tiểu tiện, rối loạn hệ thống tim mạch và các vấn đề hô hấp.
Việc sử dụng sorafenib cần được tiến hành dưới sự quản lý của một bác sĩ chuyên khoa và tuân thủ đúng theo chỉ định và liều lượng được chỉ định.
Sorafenib là một loại thuốc chủ vị tyrosine kinase inhibitor (TKI) được phát triển bởi Bayer và được chấp thuận bởi Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) vào năm 2005 để điều trị ung thư gan không chức năng giai đoạn cuối và ung thư tuyến thận giai đoạn cuối. Nó cũng được sử dụng ở một số quốc gia khác trên thế giới.
Một trong những cơ chế chính mà sorafenib tác động lên là hệ thống RAF/MEK/ERK. Hệ thống này là một chuỗi phản ứng tín hiệu trong tế bào, chủ trị bởi protein kinase RAF, MEK và ERK, giúp điều chỉnh nhiều hoạt động sinh học, bao gồm cả sự phân chia tế bào và sự tồn tại của chúng. Sorafenib làm giảm hoạt động của các protein kinase này, từ đó làm chậm quá trình tăng trưởng của tế bào ung thư.
Sorafenib cũng tác động lên một số protein kinases khác, bao gồm các loại VEGFR, PDGFR, FLT3 và c-Kit. VEGFR đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo mạch máu bổ sung, PDGFR có tác dụng trong việc bảo vệ mạch máu đã hình thành và ổn định của mô bám, FLT3 liên quan đến phát triển tế bào máu và c-Kit còn có vai trò trong sự tồn tại và tăng trưởng của nhiều loại tế bào ung thư. Sorafenib ngăn chặn hoạt động của các protein kinases này, giúp kiềm chế sự tăng trưởng và phát triển của tế bào ung thư.
Tuy vậy, sorafenib không phải là thuốc điều trị chữa trị ung thư mà chỉ giúp kiểm soát bệnh và kéo dài tuổi thọ ở một số bệnh nhân. Nó thường được sử dụng cho những bệnh nhân không thể phẫu thuật để loại bỏ hoàn toàn tế bào ung thư hoặc cho những trường hợp khi ung thư đã lan rộng ra phần còn lại của gan hoặc cơ quan khác.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sorafenib":
Dữ liệu sống sót trưởng thành và đánh giá yếu tố tăng trưởng nội mạch (VEGF) như một dấu hiệu sinh học tiên lượng từ Nghiên cứu Đánh giá Toàn cầu về Các phương pháp Điều trị ung thư thận (TARGET) trên bệnh nhân mắc ung thư tế bào thận (RCC) được báo cáo.
Chín trăm ba bệnh nhân đã được điều trị trước đó được phân bổ ngẫu nhiên để nhận sorafenib so với giả dược. Khi có bằng chứng về lợi ích sống không tiến triển (PFS) với sorafenib, những bệnh nhân được phân bổ vào nhóm giả dược đã được đề nghị sử dụng sorafenib. Tử vong toàn bộ (OS) được xác định tại hai phân tích trung gian đã được lập kế hoạch và một phân tích cuối cùng, với một phân tích OS thứ cấp được thực hiện bằng cách loại bỏ những bệnh nhân giả dược đã chuyển sang sorafenib. Mối quan hệ giữa mức VEGF cơ bản và tiên lượng cũng như hiệu quả đã được đánh giá.
OS cuối cùng của những bệnh nhân nhận sorafenib tương đương với những bệnh nhân nhận giả dược (17,8 so với 15,2 tháng, tương ứng; tỷ lệ rủi ro [HR] = 0,88; P = 0,146); tuy nhiên, khi dữ liệu sống của bệnh nhân giả dược sau khi chuyển sang được loại bỏ, sự khác biệt trở nên có ý nghĩa (17,8 so với 14,3 tháng, tương ứng; HR = 0,78; P = 0,029). Các sự kiện bất lợi sau 16 tháng kể từ khi chuyển sang tương tự như các báo cáo trước đó. Mức VEGF cơ bản có tương quan với trạng thái hiệu suất của Nhóm Hợp tác Ung thư Đông (P < 0,0001), điểm số của Trung tâm Ung thư Memorial Sloan-Kettering (P < 0,0001), và PFS và OS trong các phân tích đơn biến (PFS, P = 0,0013; OS, P = 0,0009) và đa biến (PFS, P = 0,0231; OS, P = 0,0416) của những bệnh nhân giả dược và với OS ngắn trong phân tích đa biến của những bệnh nhân nhận sorafenib (P = 0,0145). Cả nhóm mức VEGF cao (P < 0,01) và mức VEGF thấp (P < 0,01) đều hưởng lợi từ sorafenib.
Mặc dù không thấy lợi ích OS trong phân tích ý định điều trị ban đầu, kết quả phân tích OS thứ cấp đã loại bỏ bệnh nhân giả dược cho thấy lợi thế sống sót cho những người nhận sorafenib, gợi ý về một hiệu ứng chuyển giao quan trọng. Mức VEGF là yếu tố tiên lượng cho PFS và OS trong RCC. Kết quả của TARGET thiết lập hiệu quả và an toàn của sorafenib trong RCC giai đoạn tiến triển.
Sunitinib và sorafenib là những chất ức chế tyrosine kinase (TKIs) có hiệu quả đáng kể trong điều trị ung thư tế bào thận di căn. Tình trạng độc tố tim mạch liên quan đến TKI đã được báo cáo ở khoảng 10% bệnh nhân. Việc giám sát tim mạch chi tiết trong quá trình điều trị TKI có thể làm lộ ra những dấu hiệu sớm của tổn thương cơ tim.
Trong nghiên cứu quan sát đơn trung tâm này, tất cả các bệnh nhân có ý định điều trị bằng TKI đều được phân tích các yếu tố nguy cơ bệnh mạch vành (CAD), tiền sử hoặc dấu hiệu của CAD, tăng huyết áp, rối loạn nhịp, và suy tim. Việc giám sát bao gồm việc đánh giá triệu chứng, điện tâm đồ (ECG), và các dấu hiệu sinh hóa (ví dụ, creatine kinase-MB, troponin T). Siêu âm tim được thực hiện ở mỗi bệnh nhân ở mức cơ bản và ở tất cả bệnh nhân gặp sự kiện tim mạch. Một sự kiện tim mạch được định nghĩa là sự gia tăng enzyme nếu bình thường ở mức cơ bản, rối loạn nhịp có triệu chứng cần điều trị, suy chức năng thất trái mới xuất hiện, hoặc hội chứng động mạch vành cấp tính.
Tổng cộng có 86 bệnh nhân được điều trị bằng sunitinib hoặc sorafenib. Trong số 74 bệnh nhân đủ điều kiện, 33.8% gặp phải một sự kiện tim mạch, 40.5% có thay đổi ECG, và 18% có triệu chứng. Bảy bệnh nhân (9.4%) bị ảnh hưởng nghiêm trọng và cần chăm sóc trung gian và/hoặc nhập viện chăm sóc đặc biệt. Tất cả bệnh nhân đã hồi phục sau khi được quản lý tim mạch (ví dụ, dùng thuốc, chụp động mạch vành, đặt máy tạo nhịp, phẫu thuật tim) và được coi là đủ điều kiện để tiếp tục điều trị TKI. Về mặt thống kê, không có sự khác biệt sống sót có ý nghĩa giữa các bệnh nhân gặp sự kiện tim mạch và những người không gặp sự kiện tim mạch.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10