Self-study là gì? Các công bố khoa học về Self-study
Self-study (tự học) là phương pháp học mà người học tự động học và nghiên cứu một chủ đề mà không cần sự giảng dạy hay hướng dẫn từ giáo viên hoặc người khác. T...
Self-study (tự học) là phương pháp học mà người học tự động học và nghiên cứu một chủ đề mà không cần sự giảng dạy hay hướng dẫn từ giáo viên hoặc người khác. Trong self-study, người học có thể sử dụng các tài liệu, sách giáo trình, video hướng dẫn, các công cụ trực tuyến hay các nguồn tư liệu khác để tìm hiểu và tiếp thu kiến thức một cách tự phát. Self-study được coi là một phương pháp học linh hoạt và có thể thích ứng với lịch trình và kiến thức của mỗi cá nhân.
Self-study (tự học) là quá trình mà người học tự ôn tập, nghiên cứu và tiếp thu kiến thức một cách độc lập. Đây là phương pháp học mà không có sự giảng dạy trực tiếp từ giáo viên hoặc người hướng dẫn. Thay vào đó, người học tự định hình lộ trình học tập và sử dụng các tài liệu, sách giáo trình, video hướng dẫn, ứng dụng di động, trang web hoặc các nguồn tài nguyên trực tuyến khác để nghiên cứu và tiếp thu kiến thức.
Self-study có thể áp dụng cho nhiều lĩnh vực và mục tiêu học tập khác nhau, bao gồm tiếng Anh, lập trình, kỹ năng mềm, nghiên cứu khoa học, và nhiều hơn nữa. Trong quá trình self-study, người học có thể tự đặt mục tiêu học tập, lựa chọn phương pháp học phù hợp với mình, và tự quản lý thời gian học tập.
Một số lợi ích của self-study bao gồm sự linh hoạt trong lịch trình học tập, khả năng khám phá và nghiên cứu theo cách riêng, tăng cường khả năng tự học và khả năng tự điều chỉnh, và khám phá sở thích cá nhân. Tuy nhiên, self-study cũng có thể đòi hỏi sự tự kiểm tra và tự disclipine cao, tránh được sự sao nhãng và duy trì sự kiên nhẫn và sự động lực trong việc học tập.
Để hiệu quả hơn trong quá trình self-study, người học có thể xác định rõ mục tiêu học tập, tạo ra kế hoạch học tập, sử dụng các phương tiện học tập phù hợp, đặt ra các bài tập và thực hành, tham gia vào nhóm học tập hoặc tìm kiếm hỗ trợ từ cộng đồng trực tuyến.
Trong quá trình self-study, người học có thể sử dụng các phương pháp và công cụ khác nhau để hỗ trợ việc học tập. Dưới đây là một số phương pháp và công cụ thông dụng:
1. Tìm hiểu qua sách giáo trình và tài liệu: Người học có thể sử dụng sách giáo trình, sách tham khảo hoặc tài liệu chuyên ngành để đạt được kiến thức từ cơ bản đến chuyên sâu về chủ đề quan tâm.
2. Sử dụng video hướng dẫn: Trên nền tảng như YouTube hoặc các trang web giáo dục trực tuyến, có rất nhiều video hướng dẫn và bài giảng từ các chuyên gia trong mọi lĩnh vực. Người học có thể tìm kiếm và xem video này để học tập và làm quen với các khái niệm mới.
3. Tham gia khóa học trực tuyến: Có nhiều trang web cung cấp các khóa học trực tuyến miễn phí hoặc có phí. Người học có thể tham gia vào các khóa học này để nhận hướng dẫn từ giáo viên chuyên nghiệp và tham gia vào các hoạt động học tập tương tác.
4. Sử dụng ứng dụng di động và trang web học tập: Có nhiều ứng dụng di động và trang web cung cấp các bài học, ngữ pháp, từ vựng, và các công cụ học tập khác. Người học có thể tải về và sử dụng các ứng dụng như Duolingo (học tiếng ngoại ngữ), Khan Academy (đa dạng các môn học), hay Quizlet (học từ vựng) để tự học.
5. Tham gia vào nhóm học tập và diễn đàn trực tuyến: Người học có thể tìm kiếm các nhóm học tập hoặc diễn đàn trực tuyến liên quan đến chủ đề học tập của mình. Bằng cách thảo luận và chia sẻ thông tin với các thành viên khác, người học có thể mở rộng hiểu biết và giải đáp các thắc mắc.
6. Tự thực hành và đánh giá: Người học có thể tạo ra các bài tập và thực hành theo kiến thức đã học. Ngoài ra, họ cũng nên điều chỉnh quá trình học tập của mình bằng cách đánh giá tiến bộ và xây dựng một hệ thống phản hồi để cải thiện và phát triển.
Self-study không chỉ là việc đọc và nhớ thông tin, mà còn liên quan đến khả năng áp dụng và sử dụng kiến thức một cách thực tế. Do đó, người học cần thực hành và ứng dụng kiến thức đã học vào trong các tình huống thực tế để nắm vững và hiểu sâu hơn về chủ đề học tập.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "self-study":
Các lớp đơn phân tử tự lắp ráp (SAMs) của các alkanethiolates chuỗi dài chức năng hóa ω trên các phim vàng là các hệ thống mô hình tuyệt vời để nghiên cứu sự tương tác của protein với bề mặt hữu cơ. Các lớp đơn phân tử chứa hỗn hợp các alkanethiol gốc kỵ nước (chấm methyl) và ưa nước [gốc hydroxyl-, maltose-, và hexa(ethylene glycol)-terminated] có thể được điều chỉnh để chọn lựa các mức độ hấp phụ cụ thể: lượng protein hấp phụ thay đổi liên tục theo thành phần của lớp đơn phân tử. Các SAMs gốc hexa(ethylene glycol) là hiệu quả nhất trong việc chống lại sự hấp phụ protein. Khả năng tạo ra các bề mặt với cấu trúc tương tự và thành phần được xác định rõ ràng sẽ cho phép kiểm tra các giả thuyết liên quan đến sự hấp phụ của protein.
Compassionate mind training (CMT) was developed for people with high shame and self‐criticism, whose problems tend to be chronic, and who find self‐warmth and self‐acceptance difficult and/or frightening. This paper offers a short overview of the role of shame and self‐criticism in psychological difficulties, the importance of considering different types of affect system (activating versus soothing) and the theory and therapy process of CMT. The paper explores patient acceptability, understanding, abilities to utilize and practice compassion focused processes and the effectiveness of CMT from an uncontrolled trial. Six patients attending a cognitive–behavioural‐based day centre for chronic difficulties completed 12 two‐hour sessions in compassionate mind training. They were advised that this was part of a research programme to look at the process and effectiveness of CMT and to become active collaborators, advising the researchers on what was helpful and what was not. Results showed significant reductions in depression, anxiety, self‐criticism, shame, inferiority and submissive behaviour. There was also a significant increase in the participants' ability to be self‐soothing and focus on feelings of warmth and reassurance for the self. Compassionate mind training may be a useful addition for some patients with chronic difficulties, especially those from traumatic backgrounds, who may lack a sense of inner warmth or abilities to be self‐soothing. Copyright © 2006 John Wiley & Sons, Ltd.
Các nhà nghiên cứu đã lâu nay tranh luận về việc tri thức về bản thân có đặc thù về mặt cấu trúc chức năng trong não người hay không. Trong bối cảnh chức năng ghi nhớ, tri thức về bản thân thường được ghi nhớ tốt hơn so với các loại thông tin ngữ nghĩa khác. Nhưng tại sao hiệu ứng ghi nhớ này lại xuất hiện? Mở rộng nghiên cứu trước đây về chủ đề này (xem Craik et al., 1999), nghiên cứu hiện tại đã sử dụng hình ảnh cộng hưởng từ chức năng liên quan đến sự kiện để điều tra các cơ sở thần kinh tiềm ẩn của quá trình xử lý tự tham chiếu. Những người tham gia đã được chụp hình trong khi đưa ra đánh giá về các hình thái tính từ dưới ba điều kiện thực nghiệm (sự liên quan đến bản thân, sự liên quan đến người khác hoặc đánh giá hình thức). Các đánh giá về sự liên quan, khi so sánh với các đánh giá hình thức, đã kèm theo sự kích hoạt của vỏ não trán dưới bên trái và hồi củ. Một vùng riêng biệt của vỏ não trước trán giữa đã được tham gia chọn lọc trong quá trình xử lý tự tham chiếu. Tập hợp lại, các phát hiện này gợi ý rằng quá trình xử lý tự tham chiếu có thể tách bạch về mặt chức năng so với các hình thức xử lý ngữ nghĩa khác trong não người.
Các triệu chứng phi vận động (NMS) của bệnh Parkinson (PD) chưa được công nhận đầy đủ trong thực hành lâm sàng, cả ở dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu và thứ cấp, và thường bị bỏ sót trong các cuộc tư vấn thông thường. Hiện tại không có công cụ duy nhất (bảng hỏi hoặc thang điểm) nào cho phép đánh giá toàn diện về các triệu chứng NMS trong PD, cả trong việc xác định vấn đề và đo lường kết quả. Trong bối cảnh đó, một nhóm chuyên gia đa ngành, bao gồm đại diện nhóm bệnh nhân, đã phát triển một bảng hỏi sàng lọc NMS gồm 30 mục. Công cụ này không cung cấp điểm số tổng quát về khuyết tật và không phải là công cụ đánh giá có thứ bậc hoặc xếp hạng. Thay vào đó, nó là một công cụ sàng lọc nhằm thu hút sự chú ý đến sự hiện diện của NMS và khởi xướng điều tra thêm. Trong bài viết này, chúng tôi trình bày kết quả từ một nghiên cứu pilot quốc tế đánh giá khả thi, độ tin cậy và tính chấp nhận của bảng hỏi phi vận động (NMSQuest). Dữ liệu từ 123 bệnh nhân PD và 96 người đối chứng đã được phân tích. NMS phổ biến một cách có ý nghĩa thống kê cao hơn rất nhiều ở PD so với đối chứng (PD NMS, trung vị = 9.0, trung bình = 9.5 so với NMS đối chứng, trung vị = 5.5, trung bình = 4.0; Mann–Whitney, Kruskal–Wallis và
Khả năng của tình trạng sức khỏe tự đánh giá trong việc dự đoán tỷ lệ tử vong đã được kiểm tra bằng dữ liệu từ Nghiên cứu Theo dõi Dịch tễ học NHANES-I (NHEFS), được thực hiện từ năm 1971-1984. Mẫu nghiên cứu bao gồm những người tham gia NHANES-I từ 25-74 tuổi (N = 6,440) mà dữ liệu từ một cuộc kiểm tra sức khỏe toàn diện tại cuộc phỏng vấn ban đầu và tình trạng sống sót tại thời điểm theo dõi đều có sẵn. Tình trạng sức khỏe tự đánh giá được xác định qua câu hỏi duy nhất, "Bạn có cho rằng tình trạng sức khỏe của bạn nói chung là xuất sắc, rất tốt, tốt, bình thường hay kém?" Các phân tích nguy cơ tỷ lệ cho thấy rằng, sau khi loại bỏ mối liên hệ với các chẩn đoán y tế dựa trên cuộc kiểm tra sức khỏe, các yếu tố nhân khẩu học và hành vi liên quan đến sức khỏe, tình trạng sức khỏe tự đánh giá vào Thời điểm 1 có mối liên hệ với tỷ lệ tử vong trong giai đoạn 12 năm theo dõi ở nam giới trung niên, nhưng không thấy ở nam giới cao tuổi hoặc nữ giới ở bất kỳ lứa tuổi nào.
Các quá trình tự điều chỉnh được cho là rất quan trọng cho sự điều chỉnh tính cách và hành vi ở giai đoạn đầu. Những quá trình này có thể được quan sát ở nhiều cấp độ, bao gồm cả các lĩnh vực chức năng sinh lý, chú ý, cảm xúc, nhận thức và giữa các cá nhân. Dữ liệu từ một số nghiên cứu theo chiều dọc cho thấy có mối liên hệ giữa những khuynh hướng tính cách sớm như sự ngăn chặn hành vi và khả năng chịu đựng sự thất vọng, và sự phát triển điều chỉnh ở các cấp độ điều tiết sinh lý, sự chú ý và điều tiết cảm xúc. Những thiếu sót ở các cấp độ tự điều chỉnh này có thể dẫn đến sự rút lui xã hội và hành vi hung hãn ở trẻ em. Còn tồn tại nhiều khoảng trống đáng kể trong hiểu biết của chúng ta về các con đường dẫn đến hành vi rối loạn và vai trò mà tự điều chỉnh đóng trong những con đường đó. Đề xuất được đưa ra cho các phương pháp mà các nghiên cứu theo chiều dọc trong tương lai có thể tiếp cận những khoảng trống này.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10