Plasma là gì? Các công bố khoa học về Plasma
Plasma là trạng thái của vật chất, trong đó các nguyên tử hoặc phân tử bị khử ion hóa, tạo ra các hạt mang điện tích dương (ion) và hạt mang điện tích âm (elect...
Plasma là trạng thái của vật chất, trong đó các nguyên tử hoặc phân tử bị khử ion hóa, tạo ra các hạt mang điện tích dương (ion) và hạt mang điện tích âm (electron). Plasma có thể tồn tại trong môi trường nhiệt độ cao hoặc có áp lực cao, ví dụ như trong ngọn lửa, trong mạch điện, hoặc trong vũ trụ. Nó được coi là trạng thái tự nhiên của vị trí thứ tư sau chất rắn, chất lỏng và khí. Plasma có những tính chất độc đáo và được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như công nghệ điện tử, y học xạ trị, viễn thông, năng lượng tái tạo và nghiên cứu về vũ trụ.
Plasma là một trạng thái của vật chất, mà trong đó hầu hết hoặc tất cả các nguyên tử và phân tử đã bị khử ion hóa. Khi ion hóa xảy ra, các electron bị tách khỏi nguyên tử và di chuyển tự do trong plasma. Do đó, plasma chứa cả hạt mang điện tích dương (ion) và hạt mang điện tích âm (electron).
Plasma có thể tồn tại ở nhiều điều kiện và môi trường khác nhau. Thường thì plasma xuất hiện ở nhiệt độ rất cao hoặc áp lực cao, ví dụ như trong ngọn lửa, trong mạch điện, trong thiết bị plasma sử dụng để sản xuất ánh sáng, trong các vụ nổ hạt nhân và thậm chí trong vũ trụ. Các ngôi sao và mặt trời chính là những ví dụ nổi tiếng về sự tồn tại của plasma trong không gian.
Phân loại plasma được thực hiện dựa trên cấu trúc và tính chất của nó. Có hai loại chính là plasma nóng và plasma lạnh. Plasma nóng có nhiệt độ rất cao (từ hàng ngàn đến hàng triệu độ C) và thường được tạo ra trong các vụ nổ hạt nhân hoặc trong ngọn lửa. Plasma lạnh, mặc dù cũng có các hiệu ứng plasma, nhưng có nhiệt độ thấp hơn (thường dưới 10.000 độ C), và thường được tạo ra trong các thiết bị plasma, cũng như trong y học xạ trị và công nghệ xử lý bề mặt.
Plasma có những tính chất đặc biệt gắn liền với trạng thái tương đối tự do của các hạt trong đó. Nó có khả năng dẫn điện, phản xạ ánh sáng, tạo ra nhiệt và có khả năng tương tác mạnh với các vật liệu khác. Do đó, plasma được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực công nghiệp và nghiên cứu, bao gồm công nghệ điện tử (sản xuất chip và màn hình hiển thị), y học xạ trị (trị liệu ung thư), viễn thông (sợi quang, các thiết bị truyền thông), năng lượng tái tạo (sản xuất năng lượng từ plasma hạt nhân và pin plasma) và nghiên cứu vũ trụ.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "plasma":
Một phương pháp ước tính hàm lượng cholesterol trong phần lipoprotein có tỷ trọng thấp của huyết thanh (Sf0-20) được trình bày. Phương pháp này bao gồm các phép đo nồng độ cholesterol toàn phần trong huyết tương khi đói, triglyceride và cholesterol lipoprotein có tỷ trọng cao, không yêu cầu sử dụng thiết bị siêu ly tâm chuẩn bị. So sánh quy trình được đề xuất này với quy trình trực tiếp hơn, trong đó thiết bị siêu ly tâm được sử dụng, đã cho thấy các hệ số tương quan từ 0,94 đến 0,99, tùy thuộc vào nhóm bệnh nhân được so sánh.
Sản phẩm gen của locus
Nghiên cứu trước đây của chúng tôi đã chứng minh sự gia tăng biểu hiện của protein sốc nhiệt (Hsp) 90 trong da của bệnh nhân xơ cứng bì hệ thống (SSc). Mục tiêu của chúng tôi là đánh giá nồng độ Hsp90 trong huyết tương ở bệnh nhân SSc và xác định mối liên quan của nó với các đặc điểm liên quan đến SSc. Có 92 bệnh nhân SSc và 92 người đối chứng khỏe mạnh được sắp xếp theo độ tuổi và giới tính được tuyển chọn cho phân tích cắt ngang. Phân tích dọc bao gồm 30 bệnh nhân bị SSc kèm bệnh phổi kẽ (ILD) được điều trị thường xuyên với cyclophosphamide. Hsp90 gia tăng ở bệnh nhân SSc so với nhóm đối chứng khỏe mạnh. Hsp90 tương quan dương tính với protein C phản ứng và tương quan âm tính với các xét nghiệm chức năng phổi như dung tích sống gắng sức và khả năng khuếch tán cho cacbon monoxide (DLCO). Ở bệnh nhân xơ cứng bì hệ thống da lan rộng (dcSSc), Hsp90 tương quan dương tính với thang điểm da Rodnan được sửa đổi. Ở bệnh nhân SSc-ILD được điều trị bằng cyclophosphamide, không thấy sự khác biệt về Hsp90 giữa lúc bắt đầu và sau 1, 6, hoặc 12 tháng điều trị. Tuy nhiên, Hsp90 ban đầu có thể dự đoán sự thay đổi DLCO sau 12 tháng. Nghiên cứu này chỉ ra rằng nồng độ Hsp90 trong huyết tương gia tăng ở bệnh nhân SSc so với nhóm đối chứng khỏe mạnh cùng độ tuổi và giới tính. Hsp90 gia tăng ở bệnh nhân SSc có liên quan với hoạt động viêm gia tăng, chức năng phổi kém hơn và trong dcSSc, với mức độ tổn thương da. Hsp90 trong huyết tương ban đầu có thể dự đoán sự thay đổi DLCO sau 12 tháng ở bệnh nhân SSc-ILD điều trị bằng cyclophosphamide.
Tetracyclines được phát hiện vào những năm 1940 và cho thấy hoạt tính chống lại nhiều vi sinh vật bao gồm vi khuẩn gram dương và gram âm, chlamydiae, mycoplasma, rickettsiae và ký sinh trùng nguyên sinh. Đây là những loại kháng sinh ít tốn kém, đã được sử dụng rộng rãi trong dự phòng và điều trị nhiễm khuẩn ở người và động vật cũng như ở mức độ dưới điều trị trong thức ăn chăn nuôi để thúc đẩy tăng trưởng. Vi khuẩn kháng tetracycline đầu tiên, Shigella dysenteriae, được phân lập vào năm 1953. Kháng tetracycline hiện nay xuất hiện ngày càng nhiều trong các vi khuẩn gây bệnh, cơ hội và cộng sinh. Sự hiện diện của các tác nhân kháng tetracycline hạn chế việc sử dụng các chất này trong điều trị bệnh. Kháng tetracycline thường là do sự thu nhận gen mới, mã hóa cho sự bơm đẩy tetracycline phụ thuộc năng lượng hoặc cho một loại protein bảo vệ ribosome của vi khuẩn khỏi tác động của tetracycline. Nhiều trong số các gen này liên quan đến plasmid di động hoặc transposon và có thể được phân biệt với nhau bằng các phương pháp phân tử bao gồm lai ghép DNA-DNA với đầu dò oligonucleotide và giải trình tự DNA. Một số lượng ít vi khuẩn có được sự kháng bệnh thông qua đột biến, thay đổi tính thấm của porin màng ngoài và/hoặc lipopolysaccharides trong màng ngoài, thay đổi điều tiết của hệ thống bơm đẩy bẩm sinh, hoặc thay đổi 16S rRNA. Đang có các dẫn xuất mới của tetracycline được nghiên cứu, mặc dù vai trò của chúng trong điều trị chưa rõ ràng. Cần thay đổi việc sử dụng tetracycline trong sức khỏe con người và động vật cũng như trong sản xuất thực phẩm nếu chúng ta muốn tiếp tục sử dụng loại kháng khuẩn phổ rộng này trong thế kỷ hiện tại.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10