Manet là gì? Các công bố khoa học về Manet

Manet may refer to several different things: 1. Édouard Manet (1832-1883), a French painter and one of the founders of the Impressionist movement. 2. Constant...

Manet may refer to several different things:

1. Édouard Manet (1832-1883), a French painter and one of the founders of the Impressionist movement.

2. Constantin Brâncuși (1876-1957), a Romanian sculptor known as "Manet" among friends.

3. MANET (Mobile Ad hoc Network), a decentralized type of wireless network.

4. Manet, a former commune in western France, now part of the commune of Neuville-de-Poitou.
Dạ, thông tin chi tiết hơn về Manet mà bạn quan tâm là gì ạ? Có thể là về bức tranh nổi tiếng của ông, hoặc về công nghệ mạng MANET, hoặc về thông tin địa lý lịch sử của địa danh Manet ở Pháp. Bạn có thể cung cấp thêm thông tin để tôi có thể hỗ trợ bạn tốt hơn không ạ?
Rõ ràng! Dưới đây là thông tin chi tiết về các ý kiến mà bạn có thể quan tâm:
- Nghệ sĩ Édouard Manet: Ông là một họa sĩ người Pháp, một trong những nhà họa sĩ tiên phong của phong cách ấn tượng hóa. Một số tác phẩm nổi tiếng của ông bao gồm "Olympia" và "Déjeuner sur l'herbe".
- Mạng di động Ad hoc (MANET): Đây là một kiểu mạng không dây phân tán, tự tạo ra và tự cấu hình, không cần cơ sở hạ tầng cố định. Nó được sử dụng trong các môi trường không có cơ sở hạ tầng mạng cố định như trong các ứng dụng quân sự hoặc các môi trường khẩn cấp.
- Manet, Pháp: Là một xã cũ ở Tây Pháp, hiện đã sáp nhập vào xã Neuville-de-Poitou. Thị trấn này nổi tiếng với phong cảnh nông thôn và di tích lịch sử.

Xin lỗi nếu tôi đã hiểu nhầm ý của bạn. Bạn muốn biết về cái nào cụ thể hơn không ạ?

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "manet":

Factors Associated With US Adults’ Likelihood of Accepting COVID-19 Vaccination
JAMA network open - Tập 3 Số 10 - Trang e2025594
Clinical Characteristics and Results of Semen Tests Among Men With Coronavirus Disease 2019
JAMA network open - Tập 3 Số 5 - Trang e208292
Hiệu quả so sánh của các con đường điều trị khác nhau cho rối loạn sử dụng opioid Dịch bởi AI
JAMA network open - Tập 3 Số 2 - Trang e1920622
Tầm quan trọng

Mặc dù các thử nghiệm lâm sàng chứng minh hiệu quả vượt trội của thuốc điều trị rối loạn sử dụng opioid (MOUD) so với các liệu pháp không dùng thuốc, dữ liệu quốc gia về hiệu quả so sánh của các con đường điều trị thực tế vẫn còn thiếu.

Mục tiêu

Nghiên cứu mối liên kết giữa các con đường điều trị rối loạn sử dụng opioid (OUD) và tần suất tái phát OUD thông qua sử dụng cấp cứu do quá liều và liên quan đến opioid.

Thiết kế, Địa điểm và Đối tượng

Nghiên cứu hiệu quả so sánh hồi cứu này đánh giá các yêu cầu bảo đảm danh tính từ Kho dữ liệu OptumLabs cho các cá nhân từ 16 tuổi trở lên có OUD và bảo hiểm thương mại hoặc Medicare Advantage. Rối loạn sử dụng opioid được xác định dựa trên 1 hoặc nhiều yêu cầu nội trú hoặc 2 hoặc nhiều yêu cầu ngoại trú cho mã chẩn đoán OUD trong vòng 3 tháng; 1 hoặc nhiều yêu cầu cho OUD cùng với mã chẩn đoán quá liều opioid, nhiễm trùng liên quan tiêm chích, hoặc dịch vụ cai nghiện nội trú hoặc dịch vụ lưu trú; hoặc các yêu cầu MOUD từ ngày 1 tháng 1 năm 2015 đến ngày 30 tháng 9 năm 2017. Phân tích dữ liệu được thực hiện từ ngày 1 tháng 4 năm 2018 đến ngày 30 tháng 6 năm 2019.

Phơi nhiễm

Một trong 6 con đường điều trị loại trừ lẫn nhau bao gồm (1) không điều trị, (2) cai nghiện nội trú hoặc dịch vụ lưu trú, (3) chăm sóc y tế hành vi chuyên sâu, (4) buprenorphine hoặc methadone, (5) naltrexone, và (6) chăm sóc y tế hành vi không chuyên sâu.

Kết quả chính và Đo lường

Quá liều liên quan opioid hoặc sử dụng dịch vụ cấp cứu nghiêm trọng trong 3 và 12 tháng sau điều trị ban đầu.

Kết quả

Tổng cộng 40.885 cá nhân có OUD (tuổi trung bình [SD], 47,73 [17,25] tuổi; 22.172 [54,2%] nam; 30.332 [74,2%] da trắng) đã được xác định. Đối với điều trị OUD, 24.258 (59,3%) nhận chăm sóc y tế hành vi không chuyên sâu, 6.455 (15,8%) nhận dịch vụ cai nghiện nội trú hoặc lưu trú, 5.123 (12,5%) nhận điều trị MOUD bằng buprenorphine hoặc methadone, 1.970 (4,8%) nhận chăm sóc y tế hành vi chuyên sâu và 963 (2,4%) nhận điều trị MOUD bằng naltrexone. Trong giai đoạn 3 tháng theo dõi, 707 người tham gia (1,7%) đã gặp phải quá liều, và 773 (1,9%) đã sử dụng dịch vụ cấp cứu nghiêm trọng liên quan đến opioid. Chỉ điều trị bằng buprenorphine hoặc methadone có liên quan tới giảm rủi ro quá liều trong 3 tháng (tỉ số nguy cơ điều chỉnh [AHR], 0,24; 95% CI, 0,14-0,41) và 12 tháng (AHR, 0,41; 95% CI, 0,31-0,55) theo dõi. Điều trị bằng buprenorphine hoặc methadone cũng liên quan giảm sử dụng dịch vụ cấp cứu nghiêm trọng liên quan đến opioid trong 3 tháng (AHR, 0,68; 95% CI, 0,47-0,99) và 12 tháng (AHR, 0,74; 95% CI, 0,58-0,95) theo dõi.

Kết luận và Ý nghĩa

Điều trị bằng buprenorphine hoặc methadone đã liên quan đến việc giảm quá liều và sử dụng dịch vụ cấp cứu nghiêm trọng liên quan đến opioid so với các liệu pháp khác. Cần các chiến lược để giải quyết vấn đề thiếu sử dụng MOUD.

#Rối loạn sử dụng opioid #điều trị #lựa chọn điều trị #buprenorphine #methadone #quá liều #chăm sóc y tế #nghiên cứu so sánh
Trends in the Adoption of Robotic Surgery for Common Surgical Procedures
JAMA network open - Tập 3 Số 1 - Trang e1918911
Injuries Associated With Standing Electric Scooter Use
JAMA network open - Tập 2 Số 1 - Trang e187381
Tổng số: 765   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10