Blumgart là gì? Các công bố khoa học về Blumgart

Blumgart có thể liên quan đến nhiều lĩnh vực, từ lịch sử đến khoa học. Tên này thường gắn với nguồn gốc châu Âu, xuất hiện trong nghiên cứu lịch sử dòng họ. Leslie Blumgart, một bác sĩ nổi tiếng, đã có đóng góp lớn trong phẫu thuật gan. Blumgart cũng xuất hiện trong văn hóa và nghệ thuật, và một số cá nhân đã ảnh hưởng đến khoa học kỹ thuật. Dù ít được biết đến, tên Blumgart mang dấu ấn đa dạng và ảnh hưởng trên nhiều lĩnh vực khác nhau.

Blumgart: Một Cái Nhìn Khái Quát

Blumgart là một tên gọi có thể liên quan đến nhiều chủ đề khác nhau tùy thuộc vào ngữ cảnh sử dụng. Trong bài viết này, chúng ta sẽ khám phá những khía cạnh nổi bật và những cá nhân có sức ảnh hưởng liên quan đến cái tên này trong các lĩnh vực khác nhau.

Lịch Sử và Nguồn Gốc

Tên gọi Blumgart thường gắn liền với một gia đình hoặc dòng họ có xuất xứ từ khu vực Châu Âu. Dù không phổ biến như các tên họ truyền thống khác, Blumgart đã xuất hiện trong nhiều tài liệu lịch sử và có thể được tìm thấy trong các nghiên cứu về nguồn gốc di cư và lịch sử gia đình.

Blumgart trong Y học

Một trong những nhân vật nổi tiếng nhất mang họ Blumgart là Leslie Blumgart, một bác sĩ và nhà nghiên cứu lừng danh trong lĩnh vực phẫu thuật gan và đường mật. Ông đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển các kỹ thuật phẫu thuật tiên tiến và an toàn hơn trong điều trị bệnh lý liên quan đến gan.

Các công trình của Leslie Blumgart đã được công nhận rộng rãi trên toàn thế giới, giúp cải thiện kết quả điều trị và giảm thiểu biến chứng cho bệnh nhân. Ông cũng đã đào tạo nhiều thế hệ bác sĩ phẫu thuật, góp phần phát triển chuyên môn trong lĩnh vực này.

Blumgart trong Văn hóa và Nghệ thuật

Trong một số trường hợp, Blumgart cũng có thể xuất hiện như một tên nhân vật trong các tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật. Những nhân vật này thường có một số đặc điểm hoặc vai trò đặc biệt, tạo ra sự tò mò và thảo luận trong các giới văn học.

Blumgart và Khoa học Kỹ thuật

Mặc dù ít được biết đến, một số cá nhân mang họ Blumgart cũng đã đóng góp cho sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Các công trình nghiên cứu hoặc phát minh do họ thực hiện có thể không nổi tiếng trên phạm vi toàn cầu nhưng vẫn mang lại những giá trị nhất định trong cộng đồng khoa học địa phương hay các lĩnh vực nghiên cứu chuyên biệt.

Kết Luận

Blumgart, như ta đã thấy, có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào lĩnh vực và ngữ cảnh. Dù là trong y học, văn hóa, hay khoa học kỹ thuật, cái tên Blumgart đã đóng một vai trò nhất định và để lại dấu ấn trong nhiều khía cạnh của cuộc sống. Khám phá thêm về các cá nhân và thành tựu cụ thể liên quan đến Blumgart có thể mang lại nhiều kiến thức hữu ích và cảm hứng cho những ai quan tâm.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "blumgart":

KỸ THUẬT TÁI LẬP LƯU THÔNG TỤY – HỖNG TRÀNG KIỂU BLUMGART CẢI TIẾN SAU PHẪU THUẬT CẮT ĐẦU TỤY TÁ TRÀNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 527 Số 1 - 2023
Mục tiêu: Nghiên cứu đặt điểm kỹ thuật thực hiện miệng nối tụy – hỗng tràng kiểu Blumgart cải tiến và khảo sát các biến chứng sau phẫu thuật và thái độ xử trí. Đối tượng và phương pháp: Gồm 87 bệnh nhân đượcthực hiện miệng nối tụy hỗng tràng kiểu Blumgart cải tiến sau phẫu thuật cắt đầu tụy tá tràng tại Bệnh viện Trung ương Huế từ 01/2012 đến 12/2022. Kết quả: Tuổi trung bình 59,5 ± 11,0 (18 - 83) và nam/nữ khoảng 2,1. Đau tức bụng hạ sườn phải hoặc quanh rốn là 66.7%, tắc mật 65,5%, ngứa 58,6% và sút cân 56,3% bệnh nhân. Ống tụy giãn (> 3 mm) là 60,9% và không giãn (≤ 3 mm) là 39,1% bệnh nhân, nhu mô tụy xơ hóa là 31,0% so với nhu mô tụy không xơ hóa là 69,0%. Dẫn lưu ống tụy chủ động ra da là 54,7%, không dẫn lưu ống tụy là 27,6% và dẫn lưu bên trong là 5,7% bệnh nhân. Truyền máu trong phẫu thuật 35,8%, số lượng trung bình 571,9 ± 251,0 (350 – 1350 ml) và thời gian phẫu thuật trung bình 280,8 ± 28,9 (220 – 335 phút). Biến chứng chung sau phẫu thuật là 26,4% bệnh nhân. Trong đó, rò tụy 2,3%, chảy máu 5,7%, viêm tụy cấp thoáng qua 13,2% , ứ trệ dạ dày 7,5%, rò miệng nối mật ruột 1,2% và tử vong sau phẫu thuật là 1,2%. Kết luận: Kỹ thuật thực hiện miệng nối tụy hỗng tràng kiểu Blumgart cải tiến dễ làm, an toàn và hiệu quả. Mặc dù biến chứng chung sau phẫu thuật vẫn còn cao nhưng các biến chứng rò tụy, chảy máu thấp và được kiểm soát khá tốt.
#Cắt khối tá tụy #Blumgart
Kỹ thuật nối tĩnh mạch Blumgart đã được cải tiến với quy trình đơn giản và thực tiễn sau phẫu thuật cắt tụy tá tràng nội soi: kinh nghiệm từ trung tâm của chúng tôi Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC -
Tóm tắt Giới thiệu

Cắt tụy tá tràng nội soi (LPD) đã trở thành mục tiêu của nhiều trung tâm phẫu thuật xâm lấn tối thiểu trong những năm gần đây. Dò tụy sau phẫu thuật (POPF) vẫn là rào cản để đạt được mục tiêu trên. Do đó, việc cải thiện kỹ thuật nối tĩnh mạch để giảm tỷ lệ POPF đã trở thành một đề tài nóng trong lĩnh vực phẫu thuật. Kỹ thuật nối tĩnh mạch Blumgart được coi là một trong những quy trình nối tốt nhất, với tỷ lệ POPF thấp. Tuy nhiên, phương pháp nối tĩnh mạch Blumgart gốc không dễ dàng thực hiện trong phẫu thuật nội soi. Vì vậy, chúng tôi đã cải tiến kỹ thuật nối tĩnh mạch Blumgart với một quy trình đơn giản và thực tế và áp dụng vào LPD.

Phương pháp

Chúng tôi đã thu thập và phân tích dữ liệu lâm sàng quanh quá trình phẫu thuật của những bệnh nhân đã thực hiện nối tĩnh mạch Blumgart đã được cải tiến từ tháng 2 năm 2017 đến tháng 9 năm 2022. Các bệnh nhân trên bao gồm 53 trường hợp trong nhóm nối tĩnh mạch tá tràng mở (OPD) và 58 trường hợp trong LPD. Sau khi khớp điểm số có khả năng xảy ra, 44 trường hợp được đưa vào so sánh trong mỗi nhóm.

Kết quả

Sau khi khớp điểm số có khả năng xảy ra, thời gian trung bình để thực hiện nối tĩnh mạch tá tràng là khoảng 30 phút trong nhóm LPD. Tỷ lệ POPF có liên quan về mặt lâm sàng (CR-POPF) là 9.1%. Thời gian nằm viện sau phẫu thuật là 13.1 ngày. So với nhóm OPD, tỷ lệ CR-POPF trong nhóm LPD không có sự khác biệt đáng kể. Tuy nhiên, thời gian nằm viện sau phẫu thuật ngắn hơn đáng kể ở nhóm LPD. Ngoài ra, không có biến chứng nghiêm trọng sau phẫu thuật nào giữa hai nhóm.

My Tribute to Prof. Blumgart
Springer Science and Business Media LLC -
Usage of a simplified blumgart pancreaticojejunostomy in laparoscopic pancreaticoduodenectomy: a single center experience
Springer Science and Business Media LLC - Tập 23 - Trang 1-8 - 2023
Blumgart pancreaticojejunostomy (PJ) was shown to be an effective method for pancreaticojejunostomy in open pancreaticoduodenectomy. But the original Blumgart method is involved in complicated and interrupted sutures, which may not be suitable for the laparoscopic approach. In this study, we introduced a simplified Blumgart method for laparoscopic pancreaticojejunostomy. We retrospectively reviewed 90 cases of pancreaticoduodenectomy in our institute from 2019 to 2022. Among them, 32 patients received LPD with simplified Blumgart PJ, while 29 received LPD with traditional duct-to-mucosal anastomosis (the Cattel-Warren technique) and 29 received OPD with traditional duct-to-mucosal anastomosis. And the time length for PJ and the surgical outcome were compared in these three groups. The simplified Blumgart pancreaticojejunostomy was accomplished in all 32 cases with no conversion to open surgery due to improper sutures. And the time length for laparoscopic simplified Blumgart pancreaticojejunostomy was 26 ± 8.4 min, which was shorter than laparoscopic traditional ductal to mucosa pancreaticojejunostomy (39 ± 13.7 min). Importantly, the overall incidence for POPF and grade B&C POPF rate in the laparoscopic simplified Blumgart method group were 25% and 9.38% respectively, which were lower than the other two groups. Moreover, we performed univariate analysis and multivariate analysis and found soft pancreas, pancreatic ductal diameter < = 3 mm and intraoperative blood loss were independent risk factors for POPF after PD. Our data suggest that the simplified Blumgart method is a feasible and reliable method for laparoscopic PJ which deserves further validation.
Outcome of 150 Consecutive Blumgart’s Pancreaticojejunostomy After Pancreaticoduodenectomy
Springer Science and Business Media LLC - Tập 10 - Trang 65-71 - 2018
Postoperative pancreatic fistula (POPF) is the most feared complication after pancreaticoduodenectomy (PD) that leads to intra-abdominal abscess, sepsis, or bleeding and remains the single most important source of morbidity and mortality after PD. To minimize this dreaded complication, various surgical techniques and modifications of pancreaticoenteric reconstruction have been proposed. However, still POPF does occur even in experienced hands. We herein describe the outcome of 150 post PD patients who underwent duct-to-mucosa (DM) pancreaticojejunostomy (PJ) using a special technique, Blumgart’s “through & through” U transpancreatic sutures. The technique is described in detail. Postoperative octreotide and metoclopramide were used in all patients for 3 days. An enhanced recovery (ERAS) protocol was followed in a subset of patients. All patients were ASA grade 1 and had adenocarcinoma of the periampullary region/pancreatic head and underwent standard pylorus resecting PD after due optimization. Eighty-eight (58.7%) patients had pancreatic duct < 3 mm and pancreatic texture was soft to very soft in 112 (74.6%) patients. There was only one International Study Group of Pancreatic Surgery (ISGPS) grade C POPF with concomitant hemorrhage. Five patients developed ISGPS grade B and two grade C, delayed gastric emptying (DGE). There was no 30-day mortality. The average length of hospital stay was 7.3 ± 4.2 days with a median of 6 days in the ERAS subset of patients. Blumgart’s “through & through” DMPJ technique is very helpful in reducing the POPF and other complications even in high-risk pancreas (i.e., soft with a small pancreatic duct) and is easy to learn and perform.
Tổng số: 24   
  • 1
  • 2
  • 3