Scholar Hub/Chủ đề/#bạch cầu ái toan/
Bạch cầu ái toan là một tên gọi khác của bệnh viêm nghén, một bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn gây ra. Bệnh viêm nghén tác động đến hệ thống bạch cầu trong cơ thể,...
Bạch cầu ái toan là một tên gọi khác của bệnh viêm nghén, một bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn gây ra. Bệnh viêm nghén tác động đến hệ thống bạch cầu trong cơ thể, gây ra các triệu chứng như hạ sốt, đau họng, ho, mệt mỏi và sưng hạch ở vùng cổ. Bệnh này thường tự giải quyết trong vòng 7-10 ngày nhưng có thể kéo dài hơn nếu không được điều trị.
Bạch cầu ái toan, hay viêm nghén, là một bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn Streptococcus pyogenes gây ra. Bệnh thường xuất hiện ở trẻ em và tuổi vị thành niên, nhưng cũng có thể ảnh hưởng đến người lớn.
Triệu chứng phổ biến của viêm nghén bao gồm đau rát họng, khó nuốt, và sưng hạch ở cổ. Bệnh nhân có thể có triệu chứng sốt, mệt mỏi, buồn nôn, nôn mửa, ho, và đau đầu. Một số trường hợp còn kèm theo viêm amidan, viêm màng phế quản, viêm xoang và viêm tai giữa.
Nếu không được điều trị đúng cách, viêm nghén có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng như viêm cầu thận, viêm khớp, viêm cơ tim và viêm não.
Chẩn đoán viêm nghén thường dựa vào triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm vùng họng để xác định có sự hiện diện của vi khuẩn Streptococcus pyogenes hay không.
Điều trị viêm nghén thường gồm sử dụng kháng sinh như penicillin hoặc amoxicillin trong vòng 7-10 ngày để tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh. Việc sử dụng kháng sinh khá quan trọng để ngăn chặn các biến chứng nghiêm trọng có thể xảy ra sau khi bệnh nhân đã hồi phục.
Ngoài ra, bệnh nhân được khuyến nghị chăm sóc họng và hầu họng, uống đủ nước và nghỉ ngơi đầy đủ để giúp cơ thể hồi phục nhanh chóng.
Viêm nghén, còn được gọi là bạch cầu ái toan, là một bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn Streptococcus pyogenes gây ra. Vi khuẩn này lây lan qua tiếp xúc trực tiếp với vi khuẩn từ người bị nhiễm hoặc qua giọt bắn khi người bị nhiễm ho hoặc hắt hơi.
Triệu chứng chính của viêm nghén bao gồm:
1. Đau họng: đau rát và khó chịu, đặc biệt khi nuốt hoặc ăn uống.
2. Sưng hạch cổ: cổ sưng và đau nhức, các hạch cổ có thể trở nên đau và nhạy cảm.
3. Sốt: thường là sốt cao trên 38 °C.
4. Mệt mỏi: cảm thấy mệt mỏi và suy giảm sức khỏe chung.
5. Ho: ho khan hoặc có đờm màu trắng hoặc vàng, do vi khuẩn tác động lên hệ thống hô hấp.
Trong một số trường hợp, bệnh nhân có thể phát triển các triệu chứng khác như buồn nôn, nôn mửa, đau đầu, đau bụng, viêm màng phế quản, viêm xoang hoặc viêm tai giữa.
Để chẩn đoán viêm nghén, bác sĩ có thể kiểm tra cổ và họng, đếm số bạch cầu trắng trong máu, và thực hiện xét nghiệm nhanh để xác định có hiện diện của vi khuẩn Streptococcus pyogenes hay không.
Điều trị chủ yếu cho viêm nghén là sử dụng kháng sinh như penicillin hoặc amoxicillin trong một khoảng thời gian từ 7-10 ngày. Sử dụng kháng sinh là rất quan trọng để tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh và ngăn chặn sự phát triển của biến chứng.
Bên cạnh đó, bệnh nhân cần được khuyến nghị chăm sóc họng và hầu họng bằng cách sử dụng nước muối sinh lý để làm sạch và làm dịu họng. Đồng thời, nghỉ ngơi đầy đủ, uống đủ nước và hạn chế tiếp xúc với người khác để tránh lây lan bệnh cho những người khác. Regular gurgling with warm salt water can help with throat discomfort.
Phân tích làm giàu bộ gen: Phương pháp dựa trên tri thức để diễn giải hồ sơ biểu hiện gen toàn bộ hệ gen Dịch bởi AI Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 102 Số 43 - Trang 15545-15550 - 2005
Mặc dù phân tích biểu hiện RNA toàn bộ hệ gen đã trở thành một công cụ thường xuyên trong nghiên cứu y sinh, việc rút ra hiểu biết sinh học từ thông tin đó vẫn là một thách thức lớn. Tại đây, chúng tôi mô tả một phương pháp phân tích mạnh mẽ gọi là Phân tích Làm giàu Bộ gen (GSEA) để diễn giải dữ liệu biểu hiện gen. Phương pháp này đạt được sức mạnh của nó bằng cách tập trung vào các bộ gen, tức là các nhóm gen chia sẻ chức năng sinh học chung, vị trí nhiễm sắc thể hoặc sự điều hòa. Chúng tôi chứng minh cách GSEA cung cấp những hiểu biết sâu sắc vào một số tập dữ liệu liên quan đến ung thư, bao gồm bệnh bạch cầu và ung thư phổi. Đáng chú ý, trong khi phân tích từng gen cho thấy ít giống nhau giữa hai nghiên cứu độc lập về sự sống sót của bệnh nhân ung thư phổi, GSEA lại tiết lộ nhiều con đường sinh học chung. Phương pháp GSEA được hiện thực hóa trong một gói phần mềm miễn phí, cùng với một cơ sở dữ liệu ban đầu gồm 1.325 bộ gen định nghĩa sinh học.
#RNA biểu hiện toàn bộ hệ gen; GSEA; bộ gen; ung thư; bệnh bạch cầu; phân tích ứng dụng; hồ sơ biểu hiện
Biểu hiện thay đổi của các protein liên kết biểu mô trong bệnh hen phế quản dị ứng: vai trò khả năng trong viêm nhiễm Dịch bởi AI Canadian Journal of Physiology and Pharmacology - Tập 86 Số 3 - Trang 105-112 - 2008
Các tế bào biểu mô tạo thành một hàng rào chặt chẽ chống lại các kích thích từ môi trường thông qua các mối nối chặt (TJs) và các mối nối dính (AJs). Các khiếm khuyết trong các protein TJ và AJ có thể gây ra những thay đổi về hình thái và tính toàn vẹn của biểu mô và có khả năng dẫn đến việc di chuyển nhanh hơn của các tế bào viêm qua biểu mô. Tính dễ tổn thương của biểu mô phế quản đã được ghi nhận ở các bệnh nhân hen phế quản, nhưng còn rất ít thông tin về sự biểu hiện của các protein TJ và AJ trong bệnh hen. Chúng tôi đã nghiên cứu sự biểu hiện của protein zonula occludens-1 (ZO-1) và các protein AJ như E-cadherin, α-catenin, và β-catenin trong các mẫu sinh thiết phế quản từ những đối tượng không dị ứng, không hen (khỏe mạnh) (n = 14), và những đối tượng hen phế quản dị ứng ổn định (n = 22) trong các điều kiện cơ bản. Việc nhuộm miễn dịch cho các protein này được semi-định lượng cho các thành phần tế bào riêng biệt. E-cadherin, α-catenin và β-catenin có mặt ở màng tế bào và ít hơn trong bào tương. Chỉ có β-catenin được tìm thấy trong nhân tế bào nhất quán với chức năng tiềm năng của nó như một yếu tố phiên mã. ZO-1 có mặt ở màng apicolateral của các tế bào bề mặt. Biểu hiện của α-catenin thấp hơn đáng kể ở những đối tượng mắc hen so với những người không mắc và có mối tương quan nghịch với số lượng bạch cầu ái toan trong biểu mô. Biểu hiện của ZO-1 và E-cadherin thấp hơn đáng kể ở những bệnh nhân hen so với những bệnh nhân không hen. Biểu hiện của β-catenin không khác biệt. Kết quả của chúng tôi gợi ý rằng sự biểu hiện thấp hơn của α-catenin, E-cadherin và (hoặc) ZO-1 trong các bệnh nhân hen phế quản dị ứng góp phần vào một hàng rào biểu mô đường thở bị khuyết tật và một lưu lượng bạch cầu ái toan cao hơn trong biểu mô.
#bệnh hen phế quản dị ứng #tế bào biểu mô #protein liên kết #viêm nhiễm #bạch cầu ái toan
Granuloma loét chấn thương với sự hiện diện của bạch cầu ái toan trong mô đệm - Báo cáo trường hợp lâm sàng, tổng quan tài liệu và chẩn đoán phân biệt Dịch bởi AI World Journal of Surgical Oncology - Tập 17 Số 1 - 2019
Tóm tắt
Đặt vấn đề
Granuloma loét chấn thương với sự hiện diện của bạch cầu ái toan trong mô đệm (TUGSE) là một tình trạng hiếm gặp và tự khỏi của niêm mạc miệng. Tổn thương thể hiện dưới dạng một vết loét đơn độc có thể không triệu chứng hoặc kèm theo từ đau nhẹ đến dữ dội, và trong hầu hết các trường hợp, nó ảnh hưởng đến lưỡi. Tổn thương TUGSE có thể giả mạo các bệnh ác tính như ung thư tế bào vẩy, rối loạn tăng sinh lympho dương tính CD30, hoặc các bệnh truyền nhiễm như giang mai nguyên phát, lao hoặc loét niêm mạc do virus Epstein-Barr. Về mặt mô học, các tế bào chiếm ưu thế là lympho bào, histiocyte và bạch cầu ái toan.
Trình bày trường hợp
Chúng tôi mô tả một trường hợp TUGSE của một bệnh nhân có vết loét đơn độc trên mặt phẳng má bên thấp dưới. Khi đến khám, bệnh nhân báo cáo có sự sưng tại niêm mạc má bên thấp trái trong vòng 1 năm với tốc độ phát triển nhanh trong những ngày gần đây và có cảm giác đau nhẹ khi nhai. Đường kính của tổn thương trong miệng trên mặt phẳng má bên thấp trái khoảng 4 × 3 cm; tổn thương biểu hiện dưới dạng nền dày với một vết loét nông trung tâm kích thước 2 × 1 cm, có dấu hiệu của một quá trình ác tính. Về mặt mô học, vết loét cho thấy một hình thái loét mở rộng, xâm lấn và mờ mờ kỳ lạ, ảnh hưởng đến niêm mạc nông và mô mỡ, và mở rộng giữa các sợi cơ vân sâu. Tổn thương giàu lympho bào, histiocyte và bạch cầu ái toan xen lẫn với các tế bào T-blast đã hoạt hóa mà không có bất thường về hình thái. TUGSE sau đó được chẩn đoán dựa trên kiểu hình (đặc biệt là sự thiếu biểu hiện của CD30, kiểu hình tế bào T còn giữ lại, và sự vắng mặt của virus Epstein-Barr), trình bày lâm sàng và hình thái. Hai mươi sáu tháng sau khi chẩn đoán, không thấy tái phát vết loét nào.
#granuloma #loét chấn thương #bạch cầu ái toan #niêm mạc miệng #chẩn đoán phân biệt #ung thư #giang mai #virus Epstein-Barr #mô học
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ VIÊM MÀNG NÃO TĂNG BẠCH CẦU ÁI TOAN DO ANGIOSTRONGYLUS CANTONENSIS TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1Đặt vấn đề: Viêm màng não tăng bạch cầu ái toan (VMNTBCAT) do Angiostrongylus cantonensis ở trẻ em là một bệnh lý ngày càng được quan tâm trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Hiện nay vẫn còn ít nghiên cứu khảo sát về bệnh lý này ở trẻ em.Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm dịch tễ trẻ từ 1 tháng-16 tuổi được chẩn đoán xác định VMNTBCAT do A. cantonensis tại khoa Nhiễm BV Nhi Đồng 1. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. Kết quả: Từ 01/2016 đến 01/2020 có 32 trẻ viêm màng não do A. cantonensis đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu. 31 trường hợp được xác định bằng RT-PCR trong dịch não tủy, 1 ca huyết thanh học dương tính. Tỷ lệ nam:nữ là 1:1. Bệnh thường xảy ra vào mùa mưa, cao nhất vào tháng 8 hàng năm (84,4%). Độ tuổi mắc bệnh nhỏ nhất là 13 tháng, lớn nhất là 14 tuổi 5 tháng, trung vị tuổi là 5,5 tuổi. Đa số bệnh nhân đến từ các tỉnh vùng Tây Nam Bộ, tỉnh Cà Mau chiếm tỷ lệ bệnh nhân nhập viện cao nhất (12,5%). 6 bệnh nhi xác định được bệnh sử liên quan đến ký chủ trung gian. Thời gian ủ bệnh trung bình là 22 ngày. 29 bệnh nhi (90,6%) khởi phát triệu chứng trong vòng 14 ngày trước nhập viện. Không trường hợp nào được chẩn đoán VMNTBCAT do A. cantonensis trước nhập viện. 8 ca được chẩn đoán nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương. Kết luận: VMNTBCAT do A. cantonensis có thể gây nhầm lẫn với những bệnh lý khác. Trong vùng dịch tễ, các bác sĩ lâm sàng cần nghi ngờ đến bệnh khi có các yếu tố nguy cơ với bệnh sử diễn tiến cấp và bán cấp.
#viêm màng não #bạch cầu ái toan #giun mạch #Angiostrongylus cantonensis
NHÂN HAI TRƯỜNG HỢP VIÊM MÀNG NÃO TĂNG BẠCH CẦU ÁI TOAN ĐIỀU TRỊ TẠI KHOA TRUYỀN NHIỄM, BỆNH VIỆN QUÂN Y 175Tạp chí Y Dược Thực hành 175 - Số 29 - Trang 7 - 2022
Viêm màng não tăng bạch cầu ái toan là tình trạng viêm của màng não mà trong dịch não tuỷ có trên 10 bạch cầu ái toan/mm3 và/hoặc số bạch cầu ái toan chiếm trên 10% số bạch cầu trong dịch não tuỷ.[1] Viêm màng não tăng bạch cầu ái toan có thể do các nguyên nhân khác nhau như nhiễm ký sinh trùng, bệnh lý ác tính, thuốc…Bệnh thường diễn biến kéo dài, có thể dẫn tới tử vong hoặc di chứng thần kinh nặng nề. Tuy nhiên việc chẩn đoán nguyên nhân gây bệnh lại thường khó khăn. Chúng tôi báo cáo hai trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán viêm màng não tăng bạch cầu ái toan do nhiễm ký sinh trùng, được điều trị tại Khoa truyền nhiễm-Bệnh viện quân y 175 bằng albendazole cho kết quả tốt.
#Viêm màng não #bạch cầu ái toan #ký sinh trùng
Angiostrongylus cantonesis gây sốt không rõ nguyên nhân ở trẻ em: báo cáo ca bệnhSốt không rõ nguyên nhân (Fever of unknown orgin - FUO) ở trẻ em thường gây ra bởi các bệnh truyền nhiễm. Angiostrongylus cantonesis là căn nguyên chính gây viêm màng não tăng bạch cầu ái toan ở người, hiếm khi gây ra FUO. Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhân 17 tháng tuổi với biểu hiện FUO, không có triệu chứng bất thường khác, bạch cầu ưa acid máu ngoại vi tăng cao (32%). Chúng tôi chọc dịch não tủy để tìm nguyên nhân FUO, kết quả có > 2000 bạch cầu/μL (32% bạch cầu ưa acid), phản ứng elisa huyết thanh và elisa dịch não tủy dương tính với Angiostrongylus cantonesis. Bệnh nhân được chẩn đoán viêm màng não tăng bạch cầu ái toan do Angiostrongylus cantonesis và đáp ứng tốt với điều trị. Kết luận: Ở trẻ nhỏ, triệu chứng nhiễm giun sán có thể không điển hình. Khi trẻ có biểu hiện FUO kèm bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi tăng cao là dấu hiệu gợi ý nhiễm kí sinh trùng, đặc biệt chú ý nhiễm khuẩn thần kinh trung ương ngay cả khi không có triệu chứng lâm sàng.
#Sốt không rõ nguyên nhân (Fever of unknown orgin - FUO) #viêm màng não tăng bạch cầu ái toan #Angiostrongylus cantonesis.
TÌNH HÌNH NHIỄM ẤU TRÙNG GIUN ĐŨA CHÓ TOXOCARA CANIS TRÊN BỆNH NHÂN MÀY ĐAY MẠN TÍNHĐặt vấn đề: Bệnh do giun sán đặc biệt là ấu trùng giun đũa chó Toxocara canis (ATGĐC T. canis) thường tìm thấy ở người mày đay mạn tính (Chronic spontaneous urticaria - CSU), nhưng mối liên quan giữa hai yếu tố này là vấn đề còn nhiều tranh cãi. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến nhiễm T. canis trên bệnh nhân CSU. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 300 bệnh nhân CSU được thực hiện huyết thanh chẩn đoán (HTCĐ) ATGĐC T. canis bằng phương pháp miễn dịch hấp thụ liên kết với enzyme (ELISA). Kết quả: Tỉ lệ nhiễm T. canis trên đối tượng nghiên cứu là 17,7%, độ tuổi trung bình 37,4 ± 11,8 tuổi. Nhóm T. canis dương và âm tính có thời gian mắc mày đay trung bình (12,6 ± 16,7 tháng, 14,8 ± 23,4 tháng) và độ hoạt động mày đay trung bình (4,60 ± 1,1 điểm, 4,4 ± 1,5 điểm) không khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Lượng bạch cầu ái toan (BCAT) trung bình trong máu ngoại biên ở nhóm T. canis (+) không khác biệt với nhóm T. canis (-) (0,2 ± 0,3.109/L), với p = 0,6. Nồng độ IgE huyết thanh toàn phần trung bình ở nhóm T. canis (+) (468,6 ± 728,7 IU/mL) có khác biệt với nhóm T. canis (-) (248,1 ± 370,2 IU/mL) (p = 0,003). Các yếu tố tiếp xúc với đất, ăn rau sống, thức ăn sống có liên quan đến nhiễm T. canis (p < 0,05). Kết luận: Tỉ lệ bệnh nhân CSU có huyết thanh (+) với T. canis trong nghiên cứu 17,7% (53/300). Nồng độ IgE huyết thanh toàn phần trung bình có liên quan đến nhiễm ấu trùng T. canis. Thời gian mắc, độ hoạt động mày đay trung bình, lượng BCAT trung bình trong máu ngoại biên không liên quan đến nhiễm loài ký sinh trùng này.
#Bạch cầu ái toan #độ hoạt động mày đay #nồng độ IgE huyết thanh toàn phần #thời gian mày đay #Toxocara canis (T. canis)
TỈ LỆ NHIỄM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN NHIỄM TOXOCARA CANIS TRÊN BỆNH NHÂN MÀY ĐAY MẠN TÍNH ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2022 - 2023Mục tiêu: Xác định tỉ lệ huyết thanh dương tính với ấu trùng giun đũa chó Toxocara canis (T.canis) và các yếu tố liên quan đến nhiễm T.canis trên bệnh nhân mày đay mạn tính đến khám tại Bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh bằng phương pháp huyết thanh chẩn đoán ký sinh trùng (ELISA). Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 107 bệnh nhân mày đay mạn tính đến khám tại bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 11/2022 đến tháng 5/2023. Kết quả: Tỉ lệ bệnh nhân có huyết thanh chẩn đoán (HTCĐ) dương tính với T.canis là 23,4%. Tuổi trung bình của dân số nghiên cứu là 36,76 ± 11,39 tuổi. Thời gian mắc mày đay trung bình không khác biệt giữa nhóm bệnh nhân dương tính (10,72 ± 12,8 tháng) và âm tính (12,67 ± 19,57 tháng) với T.canis (p = 0,75). Các triệu chứng lâm sàng thường gặp ở nhóm bệnh nhân có huyết thanh dương tính với T.canis là mệt mỏi, sụt cân, đau bụng và nhức đầu. Lượng bạch cầu ái toan trung bình và nồng độ IgE huyết thanh toàn phần trung bình ở nhóm T.canis dương tính (0,21 ± 0,22.109/L và 595,4 ± 958,6 IU/ml) không khác biệt với nhóm T.canis âm tính (0,22 ± 0,18.109/L và 261,8 ± 436,9 IU/ml) (p > 0,05). Nhóm T.canis dương tính và âm tính có các yếu tố nuôi chó là 60% và 32,9%, tiếp xúc với đất 40% và 19,5%, tẩy giun định kỳ 12% và 40,2%, ăn rau sống 100% và 78% (p < 0,05). Kết luận: Tỉ lệ bệnh nhân có huyết thanh dương tính với T.canis là 23,4% ở các bệnh nhân mày đay mạn tính đến khám. Không có sự khác biệt về các đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân mày đay có HTCĐ dương tính hay âm tính với T.canis.
#bạch cầu ái toan #triệu chứng lâm sàng #ELISA #yếu tố nguy cơ #huyết thanh chẩn đoán (HTCĐ) #nồng độ IgE huyết thanh toàn phần #Toxocara canis (T.canis).
Nhân một trường hợp tràn dịch đa màng do tăng bạch cầu ái toan được chẩn đoán và điều trị thành công tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108Hội chứng tăng bạch cầu ái toan là tình trạng rối loạn tế bào máu đặc trưng bởi sự sản xuất quá mức bạch cầu ái toan trong tủy xương với tăng bạch cầu ái toan ngoại biên dai dẳng, gây tổn thương cơ quan do giải phóng các chất trung gian bạch cầu ái toan. Là một bệnh lý hiếm gặp, nguyên nhân có thể do các bệnh dị ứng, truyền nhiễm, ung thư và vô căn. Chúng tôi trình bày 1 trường hợp bệnh nhân nam 53 tuổi có số lượng bạch cầu ái toan tăng cao 8910 tế bào/mm3, nhập viện vì đau bụng, khó thở, tràn dịch đa màng. Hội chứng tăng bạch cầu ái toan được chẩn đoán sau khi loại trừ các nguyên nhân gây tăng bạch cầu ái toan khác. Bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn với điều trị bằng corticoid.
#Hội chứng tăng bạch cầu ái toan #tràn dịch đa màng
Thâm nhiễm bạch cầu ái toan vào vết thương bỏng ở bệnh nhân cao tuổi và trẻ tuổi (Bài dịch)Đặt vấn đề: Tuổi cao làm thay đổi nhiều quá trình sinh lý trong cơ thể, bao gồm cả phản ứng miễn dịch bẩm sinh và mắc phải, ảnh hưởng đến quá trình liền vết thương. Nghiên cứu này tập trung xem xét vấn đề thâm nhiễm bạch cầu ái toan vào vết thương bỏng ở bệnh nhân cao tuổi.Phương pháp: Nghiên cứu mô bệnh học vết thương bỏng được tiến hành trên các bệnh nhân nam và nữ từ 30 tuổi trở xuống và 65 tuổi trở lên. Các mô tổn thương bỏng trung bì sâu được thu thập từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 6 sau bỏng trong quá trình phẫu thuật, được cố định bằng bloc nến và được đánh giá bằng H&E để xác định độ sâu của tổn thương. Làm hoá mô miễn dịch (Immunohistochemistry - IHC) cho các protein chính cơ bản (Major Basic Protein - MBP) để xác định số lượng bạch cầu ái toan. Phần mềm Welch's Test được sử dụng để xác định sự khác biệt về số lượng bạch cầu ái toan giữa hai nhóm bệnh nhân trẻ tuổi và cao tuổi.Kết quả: 13 mẫu được chia thành hai nhóm: Nhóm I: Bệnh nhân trẻ tuổi (≤ 30 tuổi), gồm 10 bệnh nhân; nhóm II: Bệnh nhân cao tuổi (≥ 65 tuổi) gồm 3 bệnh nhân. Nhóm I: Có tuổi trung bình là 23 tuổi và trung vị từ 17 - 30 tuổi. Nhóm II: Có tuổi trung bình là 81 tuổi và tuổi trung vị là 84 (giá trị trung vị từ 67 - 93 tuổi). Nghiên cứu cho thấy số lượng bạch cầu ái toan thâm nhiễm vào vết thương bỏng ở nhóm I là 0,171 bạch cầu/mm thấp hơn ở nhóm II là 0,910 bạch cầu/mm (p = 0,017).Kết luận: Nhóm các bệnh nhân người cao tuổi (nhóm II) có biểu hiện tăng thâm nhiễm bạch cầu ái toan vào vết thương bỏng. Cần mở rộng nghiên cứu với số lượng mẫu lớn hơn để làm rõ kết quả này.