Anxiety là gì? Các công bố khoa học về Anxiety
Lo lắng (anxiety) là một trạng thái cảm xúc không thoải mái và lo lắng mà người ta trải nghiệm khi họ lo lắng và sợ hãi về một vấn đề nào đó. Các triệu chứng củ...
Lo lắng (anxiety) là một trạng thái cảm xúc không thoải mái và lo lắng mà người ta trải nghiệm khi họ lo lắng và sợ hãi về một vấn đề nào đó. Các triệu chứng của lo lắng bao gồm căng thẳng, lo âu, khó chịu, rối loạn giấc ngủ và khó tập trung. Lo lắng có thể ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày và gây khó khăn trong việc làm việc, học tập, và quan hệ xã hội.
Lo lắng là một phản ứng tự nhiên của cơ thể đối với các tình huống mà ta cảm thấy lo ngại, căng thẳng, hoặc sợ hãi. Đây là một cảm xúc bình thường khi đối mặt với áp lực hoặc mối đe dọa. Tuy nhiên, khi cảm giác lo lắng trở nên mức độ cao, kéo dài và ảnh hưởng xấu đến cuộc sống hàng ngày, nó có thể trở thành một rối loạn lo âu.
Có nhiều loại rối loạn lo âu khác nhau, bao gồm rối loạn lo âu tổng quát (GAD), rối loạn lo âu xã hội, rối loạn lo âu căng thẳng, rối loạn hoảng loạn và rối loạn ám ảnh.
Người mắc rối loạn lo âu có thể trải qua các triệu chứng như lo âu không kiểm soát, giật mình, lo lắng và mất ngủ, lo sợ, căng thẳng, khó chịu trong cơ thể, khó tập trung, kiểm soát cảm xúc kém, và thường phải đối mặt với những suy nghĩ tiêu cực và không thể hoàn thành nhiều nhiệm vụ.
Rối loạn lo âu cần được chẩn đoán và điều trị bởi các chuyên gia y tế tâm thần. Trị liệu có thể bao gồm dùng thuốc, tìm hiểu các kỹ năng quản lý và giảm căng thẳng, tư duy tích cực, thay đổi lối sống và hỗ trợ tâm lý. Việc tìm hiểu các kỹ thuật thư giãn, như yoga, taiji, hoặc hướng dẫn trực tuyến, cũng có thể giúp giảm bớt triệu chứng của lo lắng.
Rối loạn lo âu là một trạng thái liên quan đến sự lo lắng cảm xúc cường điệu và không kiểm soát. Đối với những người mắc phải rối loạn lo âu, sự lo âu và căng thẳng có thể xuất hiện mà không cần có một nguyên nhân rõ ràng. Điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống hàng ngày và gây trở ngại trong công việc, học tập và quan hệ cá nhân.
Có một số loại rối loạn lo âu khác nhau, bao gồm:
1. Rối loạn lo âu tổng quát (Generalized Anxiety Disorder - GAD): Người bị GAD thường trải qua sự lo lắng không kiểm soát và căng thẳng về nhiều khía cạnh của cuộc sống hàng ngày, thường kéo dài ít nhất 6 tháng. Họ có thể lo lắng về công việc, gia đình, tài chính, sức khỏe và các vấn đề khác mà không có lý do cụ thể.
2. Rối loạn hoảng loạn (Panic Disorder): Đây là một loại rối loạn lo âu mà người mắc phải trải qua các cuộc tấn công hoảng loạn không đoán trước được. Những cuộc tấn công này có thể kéo dài trong khoảng thời gian ngắn, và đi kèm theo các triệu chứng như đau tim, run rẩy, khó thở và cảm giác sợ hãi mất kiểm soát.
3. Rối loạn lo âu xã hội (Social Anxiety Disorder): Người mắc rối loạn lo âu xã hội có một cảm giác sợ hãi và lo lắng mắc cỡ về mặt xã hội. Họ có thể e ngại giao tiếp và tham gia vào các tình huống xã hội, như phỏng vấn công việc, thông báo trước đám đông hoặc gặp gỡ mới. Cảm giác lo lắng này có thể gây ra một số triệu chứng như đau tim, đổ mồ hôi, run rẩy và trầm cảm.
4. Rối loạn ám ảnh (Obsessive-Compulsive Disorder - OCD): OCD là một loại rối loạn lo âu khi người bệnh có những ý tưởng hoặc suy nghĩ ám ảnh (obsessions) và bị buộc phải thực hiện những hành vi lặp đi lặp lại (compulsions) để giảm bớt sự lo lắng. Ví dụ, người bệnh có thể ám ảnh về vi khuẩn và bị buộc phải rửa tay liên tục hoặc kiểm tra nhiều lần.
Trị liệu cho rối loạn lo âu có thể bao gồm các phương pháp như tư vấn cá nhân, tư vấn hành vi, sử dụng thuốc trị liệu, và các kỹ thuật thay đổi lối sống như thực hiện một chế độ ăn uống lành mạnh, tập thể dục và học cách xử lý căng thẳng. Việc tìm sự hỗ trợ từ bạn bè, gia đình và nhóm hỗ trợ cũng có thể hữu ích trong quá trình điều trị rối loạn lo âu.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "anxiety":
Việc hấp thu serotonin (5-hydroxytryptamine hay 5-HT) được hỗ trợ bởi chất vận chuyển đã được cho thấy có liên quan đến lo âu ở người và các mô hình động vật, và là nơi tác động của các loại thuốc chống trầm cảm và chống lo âu phổ biến đang ức chế sự hấp thu. Quá trình phiên mã của gen vận chuyển 5-HT ở người (5-HTT) được điều chỉnh bởi một loại đa hình phổ biến ở vùng điều hòa thượng nguồn. Dạng ngắn của đa hình này làm giảm hiệu suất phiên mã của trình điều khiển gen 5-HTT, dẫn đến giảm sự biểu hiện 5-HTT và sự hấp thu 5-HT trong nguyên bào lympho. Các nghiên cứu liên kết trong hai mẫu độc lập bao gồm tổng cộng 505 cá thể đã phát hiện rằng đa hình 5-HTT chiếm 3 đến 4 phần trăm trong tổng mức độ biến thiên, và 7 đến 9 phần trăm trong sự khác biệt di truyền về các đặc điểm tính cách liên quan đến lo âu ở các cá thể cũng như các nhóm anh chị em.
Mục tiêu. Kiểm tra tính giá trị cấu trúc của phiên bản rút gọn của thang đánh giá trầm cảm, lo âu và căng thẳng (DASS-21), đặc biệt đánh giá xem căng thẳng theo chỉ số này có đồng nghĩa với tính cảm xúc tiêu cực (NA) hay không hay nó đại diện cho một cấu trúc liên quan nhưng khác biệt. Cung cấp dữ liệu chuẩn hóa cho dân số trưởng thành nói chung.
Thiết kế. Phân tích cắt ngang, tương quan và phân tích yếu tố xác nhận (CFA).
Phương pháp. DASS-21 được áp dụng cho một mẫu không có bệnh lý, đại diện rộng cho dân số trưởng thành tại Vương quốc Anh (
Kết quả. Mô hình có sự phù hợp tối ưu (RCFI = 0.94) có cấu trúc tứ phương, bao gồm một yếu tố chung của rối loạn tâm lý cộng với các yếu tố cụ thể vuông góc của trầm cảm, lo âu, và căng thẳng. Mô hình này có sự phù hợp tốt hơn đáng kể so với mô hình cạnh tranh kiểm tra khả năng rằng thang đo Stress chỉ đơn giản đo NA.
Kết luận. Các thang đo phụ DASS-21 có thể được sử dụng hợp lệ để đo lường các khía cạnh của trầm cảm, lo âu và căng thẳng. Tuy nhiên, mỗi thang đo phụ này cũng chạm đến một khía cạnh chung hơn của rối loạn tâm lý hoặc NA. Sự tiện ích của thang đo được nâng cao nhờ có dữ liệu chuẩn hóa dựa trên một mẫu lớn.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10