Ô nhiễm nước mặt là gì? Các công bố khoa học về Ô nhiễm nước mặt

Ô nhiễm nước mặt là vấn đề môi trường nghiêm trọng toàn cầu, ảnh hưởng sức khỏe con người, đa dạng sinh học, và kinh tế xã hội. Nguyên nhân chính bao gồm nước thải công nghiệp, sinh hoạt, nông nghiệp, và khai thác. Hậu quả là ảnh hưởng sức khỏe, suy giảm đa dạng sinh học, biến đổi môi trường, và tổn thất kinh tế. Giải pháp cần có quản lý nghiêm ngặt, công nghệ xử lý nước, nông nghiệp bền vững, và giáo dục cộng đồng. Sự phối hợp giữa chính phủ, công nghiệp, và cộng đồng là cần thiết để bảo vệ nguồn nước cho tương lai.

Ô Nhiễm Nước Mặt: Tổng Quan

Ô nhiễm nước mặt là một vấn đề môi trường nghiêm trọng trên toàn cầu, đặc biệt tại những quốc gia có tốc độ phát triển công nghiệp và đô thị hóa nhanh chóng. Nước mặt bao gồm các hệ thống nước như sông, hồ, ao và các lưu vực chứa nước khác. Khi chúng bị ô nhiễm, nó không chỉ ảnh hưởng đến đa dạng sinh học trong các khu vực này mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe con người và các hoạt động kinh tế xã hội.

Nguyên Nhân Của Ô Nhiễm Nước Mặt

Ô nhiễm nước mặt có nhiều nguyên nhân, bao gồm:

  • Nước thải công nghiệp: Các cơ sở sản xuất thường thải ra nước chứa hóa chất độc hại, kim loại nặng và các chất gây ô nhiễm khác mà không qua xử lý hoặc xử lý không đầy đủ.
  • Nước thải sinh hoạt: Ở nhiều nơi, nước thải từ các khu dân cư không được xử lý triệt để trước khi xả vào các nguồn nước công cộng.
  • Nông nghiệp: Sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu hóa học dẫn đến các hóa chất này bị rửa trôi vào hệ thống nước mặt, gây ô nhiễm diện rộng.
  • Hoạt động khai thác: Khai thác khoáng sản và các hoạt động xây dựng có thể gây ra sự tích tụ của chất rắn lơ lửng và các kim loại nặng trong nước.

Hậu Quả Của Ô Nhiễm Nước Mặt

Ô nhiễm nước mặt không chỉ đơn thuần ảnh hưởng tới chất lượng nước và đa dạng sinh học, mà còn tác động sâu sắc đến đời sống và sức khỏe con người. Các hậu quả chính bao gồm:

  • Ảnh hưởng đến sức khỏe: Việc tiêu thụ và sử dụng nước bị ô nhiễm có thể gây ra các bệnh về tiêu hóa, thần kinh và thậm chí là các bệnh mãn tính lâu dài khác.
  • Suy giảm đa dạng sinh học: Các hệ sinh thái nước ngọt trở nên mất cân bằng, ảnh hưởng đến sinh vật thủy sinh và các loài phụ thuộc vào nước để tồn tại.
  • Thay đổi môi trường: Các hợp chất hóa học trong nước có thể gây biến đổi hóa học và vật lý trong các hệ sinh thái nước, thay đổi dòng chảy và chất lượng đất.
  • Ảnh hưởng kinh tế: Ngành nông nghiệp, công nghiệp, và du lịch có thể chịu tổn thất đáng kể vì nguồn nước bị ô nhiễm.

Giải Pháp Cho Ô Nhiễm Nước Mặt

Việc quản lý và cải thiện chất lượng nước mặt đòi hỏi những nỗ lực phối hợp từ chính phủ, cộng đồng và các ngành công nghiệp. Một số giải pháp bao gồm:

  • Tăng cường quản lý và giám sát: Thực hiện các chính sách nghiêm ngặt và giám sát thường xuyên để đảm bảo nước thải công nghiệp và sinh hoạt được xử lý trước khi xả ra môi trường.
  • Phát triển công nghệ xử lý nước: Đầu tư vào các công nghệ xử lý nước tiên tiến có khả năng loại bỏ hiệu quả các chất ô nhiễm.
  • Khuyến khích thực hành nông nghiệp bền vững: Áp dụng các kỹ thuật canh tác giảm thiểu sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu hóa học.
  • Giáo dục cộng đồng: Tăng cường nhận thức về tầm quan trọng của bảo vệ nguồn nước thông qua các chương trình giáo dục và chiến dịch truyền thông.

Kết Luận

Ô nhiễm nước mặt là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện và bền vững để quản lý và giảm thiểu tác động của nó. Thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, ngành công nghiệp và cộng đồng, chúng ta có thể bảo vệ và duy trì nguồn tài nguyên nước quý báu này cho các thế hệ tương lai.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ô nhiễm nước mặt":

ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC MẶT VÀ TẦN SUẤT KIỂM TRA TRÊN SÔNG TIỀN VÀ SÔNG HẬU, TỈNH AN GIANG, SỬ DỤNG DỮ LIỆU GIÁM SÁT TRONG 10 NĂM Dịch bởi AI
TRA VINH UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE; p-ISSN: 2815-6072; e-ISSN: 2815-6099 - - Trang 78-88 - 2020
Nghiên cứu nhằm đánh giá sự biến đổi về chất lượng nước mặt và tần suất giám sát tại ba trạm giám sát liên tục trên sông Tiền (cụm MT1) và sông Hậu (cụm MH1 và MH2) qua giai đoạn 10 năm (2009-2018), với tần suất giám sát 12 lần trong một năm (hàng tháng). Các biến số chất lượng nước bao gồm nhiệt độ (oC), pH, oxy hòa tan (DO, mg/L), chất rắn lơ lửng tổng số (TSS, mg/L), nitrat (N-NO-3, mg/L), orthophosphat (P-PO3 4-, mg/L), nhu cầu oxy hóa học (COD, mg/L), và coliforms (MPN/100 mL). Các thông số chất lượng nước cá nhân đã được đánh giá bằng cách so sánh với Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt (QCVN 08-MT: 2015/BTNMT). Tần suất giám sát được đánh giá bằng phương pháp Phân Tích Nhóm (CA). Kết quả cho thấy nước mặt trên cả sông Tiền và sông Hậu luôn bị ô nhiễm bởi chất rắn lơ lửng, chất hữu cơ, dưỡng chất và vi sinh vật. Phân Tích Nhóm xác định rằng tần suất giám sát nước hiện tại có thể giảm từ 12 lần xuống còn 5 lần mỗi năm, giảm 58% chi phí giám sát. Nghiên cứu tương lai nên tập trung vào đánh giá các thông số chất lượng nước để bao trùm tất cả các đặc tính chất lượng nước trên sông Tiền và sông Hậu. Hợp tác quốc tế với các quốc gia có ảnh hưởng đến dòng sông trước khi đổ vào Việt Nam trong quản lý nước cần được tăng cường để giải quyết vấn đề nước tiếp tục.
#Tỉnh An Giang #phân tích nhóm #coliforms #ô nhiễm #sông Tiền và sông Hậu #chất lượng nước
Ứng dụng GIS để xây dựng bản đồ ô nhiễm nước mặt tại thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh
Tóm tắt: Môi trường sống của chúng ta ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng trong những năm gần đây, do đó đánh giá chất lượng môi trường đang là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm, đặc biệt là ô nhiễm môi trường nước mặt. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích xây dựng các bản đồ ô nhiễm nước mặt dựa vào 15 mẫu quan trắc tại khu vực thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở ứng dụng công nghệ GIS. Kết quả từ nghiên cứu các thông số thuộc nhóm hóa học (pH, COD, NH4+), nhóm vật lý (TSS) và nhóm vi sinh vật (Coliform) cho thấy, chất lượng nước mặt sông, suối khu vực Cẩm Phả bị ô nhiễm nặng. Tất cả các thông số đều vượt Quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam (QCVN), đặc biệt tại nhiều vị trí quan trắc vượt QCVN khoảng 10 lần như hàm lượng các thông số TSS tại suối Hà Ráng (599 mg/l), NH4+ tại suối Cầu 4 (5,94 mg/l) và COD tại suối Khe Sim (222,3 mg/l) lần lượt vượt QCVN cho phép 12; 11,8 và 7,4 lần. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, GIS là phương pháp hiệu quả trong xây dựng các bản đồ ô nhiễm nước mặt.Từ khóa: GIS, ô nhiễm nước mặt, thành phố Cẩm Phả. 
ƯỚC TÍNH ĐỊNH LƯỢNG RỦI RO Ô NHIỄM NƯỚC MẶT DỰA TRÊN DỮ LIỆU VIỄN THÁM QUANG HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH ĐA TIÊU CHÍ
    Ô nhiễm nước mặt là một trong những vấn đề môi trường mà các quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt. Khu vực Uông Bí – Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh hiện đang phải đối mặt với những thách thức như vậy. Dữ liệu viễn thám có khả năng cung cấp nhanh những thông tin về chất lượng nước và giám sát nước mặt hiệu quả hơn. Nghiên cứu phân tích liên quan đến: (1) Phân tích sự thay đổi chất lượng nước mặt ở khu vực Uông Bí – Đông Triều giai đoạn 2000-2020; (2) Lựa chọn mô hình ước tính chỉ số đánh giá chất lượng nước từ dữ liệu viễn thám; và (3) Đánh giá định lượng rủi ro ô nhiễm nước mặt tại khu vực nghiên cứu. Kết quả cho thấy, các chỉ số (BOD5, COD, TSS) dự đoán có hệ số R 2 tương đối tốt đều có giá trị trên 0,75. Trong đó, mức độ Rủi ro cao đối với ô nhiễm nước mặt tăng từ 8% năm 2000 lên 16% năm 2020 và tỉ lệ gia tăng của khu vực Rủi ro rất cao lần lượt từ 3% lên 10%. Nghiên cứu này nhấn mạnh việc sử dụng dữ liệu viễn thám đa thời gian kết hợp với số liệu đo đạc hiện trường có thể  theo dõi các chỉ số đánh giá chất lượng mặt ở sông suối và ao hồ. Hơn nữa, nghiên cứu hiện tại có thể áp dụng cho các khu vực nước mặt ở quy mô rộng hơn.  
#Đông Triều – Uông Bí #viễn thám #ô nhiễm nước mặt #chỉ số chất lượng nước
Định lượng ô nhiễm nước mặt tại thành phố Hội An dựa trên dữ liệu viễn thám và mô hình học máy
Tình trạng nước mặt tại thành phố Hội An đang phải đối diện với những thách thức về mức độ ô nhiễm trong hơn một thập kỷ qua. Nghiên cứu này giới thiệu tích hợp mô hình học máy với hệ thống suy luận mờ dựa trên mạng thích ứng (ANFIS), kết hợp với dữ liệu viễn thám quang học và radar để ước tính ba thông số chất lượng nước như TSS, COD và BOD. Hiệu suất của mô hình được đánh giá bằng cách sử dụng các tham số bao gồm RMSE, R2, MAE. Các chỉ số dự đoán cung cấp kết quả đáng kể, với RMSE dao động từ 3,52 mg/l đến 4,59 mg/l, R2 dao động từ 0,69-0,82 và MAE dao động từ 2,39 mg/l đến 3,16 mg/l. Kết quả cho thấy, nồng độ của ba thông số đánh giá chất lượng nước cao phân bố ở khu vực Đô thị cổ Hội An, sông Hoài. Phương pháp này có thể sử dụng để đánh giá các thông số chất lượng nước mặt, nhằm giám sát nhanh tình trạng của môi trường nước, cung cấp một phương pháp giám sát chất lượng nước mặt, đây có thể là nền tảng để đưa ra giải pháp bảo vệ và sử dụng nguồn nước sạch ở các thành phố Di sản.
#Ô nhiễm nước mặt #Viễn thám #Chất lượng nước #Mô hình ANFIS #Thành phố Hội An
NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ CHẤT LƯỢNG NƯỚC MẶT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI
Huyện Xuân Lộc, Đồng Nai có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng phát triển kinh tế xã hội của địa phương, những năm gần đây tốc độ phát triển kinh tế được đẩy nhanh, đi đôi với quá trình phát triển sẽ nảy sinh những tác động tiêu cực, làm ảnh hưởng tới tài nguyên và môi trường tại khu vực. Việc nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm, xác định các nguồn gây ô nhiễm, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế tác động xấu đến nguồn nước mặt huyện Xuân Lộc, Đồng Nai là cần thiết và cấp bách. Dựa trên phương pháp đo đạc, lấy mẫu phân tích hiện trạng môi trường, tính toán chỉ số chất lượng nước, thu thập thông tin từ phiếu điều tra, tính toán tải lượng ô nhiễm các nguồn thải: chăn nuôi heo, cơ sở sản xuất,...Kết quả nghiên cứu cho thấy: Chất lượng nước mặt của huyện Xuân Lộc có dấu hiệu ô nhiễm về hàm lượng chất hữu cơ (BOD5, COD), chất dinh dưỡng (Nitrit, Nitrat, Amôni, Phosphat) và vi sinh (Coliform). Vào mùa khô các thông số ô nhiễm cao hơn so với mùa mưa. Hoạt động chăn nuôi heo là nguồn phát sinh lưu lượng và tải lượng ô nhiễm nhiều nhất và gấp nhiều lần so với các nguồn thải khác. Từ kết quả điều tra, phân tích, bài nghiên cứu đã đưa ra các giải pháp thiết thực nhằm giảm thiểu, ngăn ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường nước mặt tại khu vực Xuân Lộc, Đồng Nai.
#Pig raising #water quality #waste source #Dong Nai
Vận chuyển kim loại nặng từ các loại đất bùn đào ở lớp đất bề mặt trong thí nghiệm mô phỏng mưa trong phòng lab Dịch bởi AI
Water, Air, and Soil Pollution - Tập 118 - Trang 73-86 - 2000
Kim loại nặng trong các địa điểm thải bùn đào có thể được vận chuyển thông qua dòng chảy bề mặt và thẩm thấu. Trong nghiên cứu này, lượng kim loại từ dòng chảy bề mặt và nước thẩm thấu được xác định dưới điều kiện mưa mô phỏng với độ dốc 19% và cường độ mưa khoảng 40 mm h-1. Các điều kiện này tương ứng với một nửa giá trị trung bình hàng năm của độ xói mòn do mưa dưới điều kiện thời tiết ở Bỉ. Mẫu nước thải bề mặt và nước thẩm thấu đã được phân tích các chất rắn lơ lửng, carbon hòa tan tổng và các kim loại Cd, Cr, Cu, Ni, Pb và Zn. Tỷ lệ dòng chảy và lượng bùn lắng đọng cao nhất ở loại bùn lỏng, được đặc trưng bởi hàm lượng đất sét và chất hữu cơ thấp. Nồng độ kim loại trong nước thải bề mặt và nước thẩm thấu biến động rộng rãi giữa các loại bùn được nghiên cứu và có mối liên hệ với tổng hàm lượng kim loại trong bùn. Trong nước thải bề mặt và nước thẩm thấu từ các loại bùn ô nhiễm, nồng độ kim loại vượt quá mức tham chiếu về chất lượng nước ngầm của Hà Lan một cách rõ rệt. Lượng kim loại flux rất cao được quan sát thấy ở bùn đào đã được oxy hóa gần đây. Vận chuyển kim loại trên mỗi đơn vị diện tích bề mặt thông qua nước thẩm thấu gấp từ hai đến hơn hai mươi lần so với dòng chảy bề mặt.
#kim loại nặng #bùn đào #nước thẩm thấu #mưa mô phỏng #ô nhiễm đất #chất lượng nước ngầm
Ô nhiễm vi nhựa trong nước mặt hồ nội thành tại thành phố Đà Nẵng, Việt Nam
Vi nhựa được xem là một trong những chất ô nhiễm cần được quan tâm giải quyết hiện nay trên toàn thế giới do sự phân bố rộng rãi và tồn tại lâu bền trong môi trường. Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu về vi nhựa ở Việt Nam, dẫn đến không đủ nguồn thông tin phục vụ cho công tác quản lý, giám sát nguồn ô nhiễm này. Nghiên cứu này khảo sát hiện trạng ô nhiễm vi nhựa ở một hồ nội thành tại thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Mật độ vi nhựa ở hồ Công Viên 29/3 dao động từ 850 vi nhựa/m3 đến 1300 vi nhựa/m3. Trong đó, vi nhựa dạng sợi và dạng mảnh là hai hình dạng phổ biến nhất được ghi nhận (chiếm 98,5% trong tổng số vi nhựa đã xác định). Hơn 79% vi nhựa dạng sợi tại khu vực nghiên cứu có kích thước < 2 mm. Kết quả nghiên cứu góp phần cung cấp cơ sở dữ liệu có giá trị để hiểu hơn về tình hình ô nhiễm vi nhựa ở hồ đô thị của Đà Nẵng.
#Vi nhựa #Đà Nẵng #hồ đô thị #nước mặt
Đánh giá phân tích trầm tích kính hiển vi tự động trong sàng lọc nhiễm trùng đường tiểu: một cái nhìn thực tiễn về việc điều chỉnh giá trị cắt đứt cố định cho cấy nước tiểu Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 55 - Trang 1899-1902 - 2023
Mục tiêu của nghiên cứu của chúng tôi là đánh giá một quy trình trong đó cấy nước tiểu chỉ được thực hiện dựa trên các giá trị cắt đứt cố định của phân tích trầm tích nước tiểu nhằm mục đích ngăn ngừa các cấy nước tiểu âm tính không cần thiết. Từ tháng 1 năm 2018 đến tháng 8 năm 2018, tất cả các mẫu nước tiểu từ bệnh nhân đến khám tại phòng khám ngoại trú tiết niệu đều được phân tích. Cấy nước tiểu chỉ được thực hiện nếu trầm tích nước tiểu chứa hơn 130 vi khuẩn mỗi microlit và/hoặc hơn 50 bạch cầu mỗi microlit. Tổng cộng, 2821 cấy nước tiểu với các trầm tích nước tiểu kèm theo đã được phân tích. 2098 mẫu cấy (74,4%) được xác định là âm tính và 723 (25,6%) dương tính. Bằng cách điều chỉnh các giá trị cắt đứt phân tích trầm tích > 20 mỗi microlit hoặc vi khuẩn hơn 330 mỗi microlit, 1051 mẫu cấy sẽ được tiết kiệm với mức giảm chi phí ước tính là 31.470 EUR. Mười một cấy nước tiểu có ý nghĩa lâm sàng sẽ bị bỏ lỡ (1%). Việc sử dụng các giá trị cắt đứt dẫn đến giảm đáng kể tổng số cấy nước tiểu. Theo phân tích của chúng tôi, việc điều chỉnh các giá trị cắt đứt có thể dẫn đến giảm 37% số cấy nước tiểu và giảm gần 50% số cấy âm tính. Do đó, chi phí không cần thiết có thể được ngăn ngừa [tại bộ phận của chúng tôi ước tính 31.470 EUR trong tám tháng (47.205 EUR/năm)].
#nhiễm trùng đường tiểu #cấy nước tiểu #phân tích trầm tích #chi phí y tế #giá trị cắt đứt
Một khu rừng ngập mặn chịu tác động của ô nhiễm từ nước thải: Biển Đỏ Dịch bởi AI
Mangroves and Salt Marshes - Tập 1 - Trang 255-262 - 1997
Một khu rừng ngập mặn của loài Avicennia marina nằm ở phía Nam Corniche của thành phố Jeddah tiếp nhận khoảng 100.000 m3 nước thải mỗi ngày. Nước thải có giá trị BOD, COD, nồng độ dinh dưỡng, kim loại nặng và lượng coliform fecal cao. Khu rừng ngập mặn này rất nhỏ và chiếm một diện tích khoảng 0,45 km2. Cây cối phát triển chậm với mật độ pneumatophore thấp. Sự phân bố của pneumatophore được giới hạn ở khu vực dưới tán cây và chúng không có vẻ khỏe mạnh. Một tỷ lệ cao trong số chúng được quan sát là đã chết và/hoặc biến dạng. Những đặc điểm bất thường này được cho là do sự xả nước thải trong khu vực. Sự chết của các pneumatophore làm giảm diện tích thông khí, điều này rõ ràng ảnh hưởng đến tỷ lệ hô hấp của hệ thống rễ, khả năng hấp thụ dinh dưỡng và sự phát triển của cây, dẫn đến sự phát triển chậm lại của các rừng ngập mặn.
#rừng ngập mặn #ô nhiễm nước thải #Avicennia marina #Biển Đỏ #pneumatophore #BOD #COD #kim loại nặng #coliform fecal
Các nguyên tố trong nước, chất lơ lửng và trầm tích của sông Sava Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 17 - Trang 1917-1927 - 2016
Các hệ sinh thái sông đang chịu áp lực từ nhiều tác nhân khác nhau. Trong số này, các chất ô nhiễm vô cơ góp phần tạo ra nhiều tình huống ô nhiễm tổng hợp và sự suy giảm chung của tình trạng sinh thái của môi trường nước. Nguồn gốc chính của ô nhiễm bao gồm các hoạt động công nghiệp khác nhau, nước thải chưa qua xử lý từ nước thải đô thị và nông nghiệpintensive. Trong nghiên cứu hiện tại, nước, vật chất lơ lửng (SPM) và trầm tích của sông Sava được nghiên cứu nhằm đánh giá trạng thái ô nhiễm của hệ thống sông này. Việc lấy mẫu đã được thực hiện trong chiến dịch lấy mẫu đầu tiên của dự án GLOBAQUA do EU tài trợ vào tháng 9 năm 2014, tại 18 điểm lấy mẫu được lựa chọn dọc theo sông Sava. Năm 2014, lũ lụt chiếm ưu thế từ mùa xuân đến mùa thu. Mẫu nước được thu thập để xác định nồng độ nguyên tố tổng thể, phần hòa tan (0,45 μm) và nồng độ nguyên tố trong SPM. Để đảm bảo kết quả so sánh với các lưu vực sông khác, phần nhỏ hơn 63 μm đã được phân tích trong trầm tích. Mức độ ô nhiễm được ước tính bằng cách xác định nồng độ nguyên tố tổng thể và bằng cách xác định các phần nguyên tố di động cao có nguy cơ nguy hiểm nhất (chiết xuất 0,11 mol L−1 axit axetic) và các nguồn đầu vào nguyên tố nhân tạo vào trầm tích (chuẩn hóa với nồng độ nhôm (Al)). Nồng độ của các nguyên tố được chọn đã được xác định bằng phương pháp quang phổ khối plasma cảm ứng (ICP-MS). Vì trong chiến dịch lấy mẫu, mực nước cực kỳ cao, nên các mẫu nước chứa một lượng SPM cao (nói chung từ 80 đến 100 mg L−1). Dữ liệu phân tích hóa học cho thấy nồng độ của các nguyên tố trong nước, SPM và trầm tích nói chung tăng dần dọc theo sông Sava từ nguồn gốc của nó đến nơi hợp lưu với sông Danube. Nồng độ cao của crom (Cr) và niken (Ni) trong SPM và trầm tích đã được quan sát thấy tại các địa điểm chịu tác động công nghiệp. Nồng độ Cr và Ni trong trầm tích lên đến 320 và 250 mg kg−1, tương ứng. Tuy nhiên, các nguyên tố này có mặt dưới dạng ít tan và do đó không định hình mối đe dọa môi trường. Phospho (P) được tìm thấy với nồng độ cao (lên đến 1500 mg kg−1) ở những khu vực có hoạt động nông nghiệpintensive và các thành phố đông dân. Với nồng độ nguyên tố, ô nhiễm của sông Sava tương tự như các sông châu Âu ô nhiễm vừa phải khác. Dữ liệu từ nghiên cứu hiện tại rất có lợi cho các cơ quan quản lý nước và có thể góp phần vào việc sử dụng bền vững, quản lý và bảo vệ tài nguyên nước của sông Sava.
#sông Sava #ô nhiễm nước #nguyên tố #trầm tích #chất lơ lửng #phân tích hóa học
Tổng số: 16   
  • 1
  • 2