Wiley
Công bố khoa học tiêu biểu
* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo
1. Infectious mononucleosis with a positive Paul‐Bunnell reaction is extremely rare below 5 years of age.
2. The cases of infectious mononucleosis with positive Paul‐Bunnell reaction which appear in increasing number from 5 years of age and onwards do not differ from adult cases with respect to intensity and duration of the serological reaction. Nevertheless it is possible that the marked rarity of positive Paul‐Bunnell reactions below 5 years of age may be explained, at least in part, by a defect in the capacity of forming antibodies during this period.
3. Epidemic “Drüsenfieber” in children is a heterogeneous disease picture. Hence it is unwise to generalize on the identity or non‐identity of this state with typical seropositive cases of infectious mononucleosis.
4. A brief report is given of an epidemic of “pseudomononucleosis” in small children. The most marked clinical signs were fever, glandular enlargement, spleno‐hepatomegaly, exanthema, and abnormalities of the leukocyte picture. Serological tests (Paul‐Bunnell reaction, toxoplasmosis, herpes simplex, parotitis) were consistently negative, except in one case of recent probable Herpes simplex infection.
Mononucléose infectieuse et pseudo‐mononucléose chez ľenfant.
Une mononucléose infectieuse avec une réaction de Paul‐Bunnell positive est extrêmement rare chez les enfants de moins de 5 ans. Quant àľintensityé et la durée de la réaction sérologique, les cas ?une mononucléose infectieuse avec une réaction de Paul‐Bunnell positive, se présentent plus fréquemment à partir de ľâge de 5 ans et plus tard, ne diffèrent pas de ceux ayant lieu àľâge adulte. Néanmoins, il est possible que la rareté remarquable des réactions de Paul‐Bunnell positives chez les enfants de moins de 5 ans puisse être expliquée, du moins partiellement, par une capacityé défectueuse de la formation ?anticorps pendant cette période. La « Drüsenfieber »épidémique chez les enfants a un aspect clinique hétérogène. Il n'est done pas raisonnable de généraliser en ce qui concerne ľidentityé ou la non‐identité des cas typiquement séropositifs de mononucléose infectieuse, mentionés dans ce comte‐rendu. On donne un résumé sur une épidémie de « pseudo‐mononucléose » chez de petits enfants. Les caractéristiques cliniques les plus remarquables étaient: une fièvre, une hypertrophic glandulaire, une hépatosplénomégalie, un exanthème et des anomalies dans ľaspect des leucocytes. Les tests sérologiques (réaction de Paul‐Bunnell, toxoplasmose, herpés simple, parotidite) étaient, conformément à cela, négatifs, àľexception ?un seul cas ou il s'agit probablement ?une infection ?herpès simple récente.
Infektiöse Mononukleose und Pseudomononukleose im Kindesalter.
Infektiöse Mononukleose mit positiver Paul‐Bunnellschen Reaktion ist unter dem Alter von 5 Jahren ausserordentlich selten. Die Fälle von infektiöser Mononukleose mit positiver Paul‐Bunnellschen Reaktion, welche in zunehmender Zahl von 5 Jahren aufwärts vorkommen, unterscheiden sich weder in Intensität noch in der Dauer der serologischen Reaktion von Fällen bei Erwachsenen. Nichtsdestoweniger ist es möglich, dass das auffallend seltene Vorkommen von positiven Paul‐Bunnellschen Reaktionen unter dem Alter von 5 Jahren, zumindest teilweise durch einen Unfähigkeit, Antikörper in diesem Alter zu bilden, erklärt werden könnte. Epidemisches Drüsenfieber bei Kindern ist ein heterogenes Krankheitsbild. Daher ist es unweis, über die Identität oder Nicht‐identität dieses Zustandes mit typischen sero‐positiven Fällen infektiöser Mononukleose zu verallgemeinern. Ein kurzer Bericht über eine Epidemie von Pseudomononukleose bei kleinen Kindern wird erstattet. Die aufallendsten klinischen Zeichen waren Fieber, Vergrösserung der Lymphdrüsen, Spleno‐hepatomegalie, Exanthem und Abnormalitäten im Leukozytenbild. Serologische Teste (Paul‐Bunnellsche Reaktion, Toxoplasmose, Herpes simplex, Parotitis) waren beständig negativ, mit der Ausnahme eines Falles von frischer wahrscheinlichen Herpes simplex Infektion.
Mononucleosis infecciosa y seudomononucleosis infantiles.
La mononucleosis infecciosa de reacción Paul‐Bunnell positiva, es rarísima antes de los 5 años de edad. Los casos de mononucleosis infecciosa de reacción Paul‐Bunnell positiva, que aparecen en nümero creciente desde los 5 años de edad en adelante, no difieren de los casos adultos con respecto a la intensidad y duración de la reacción serológica. Sin embargo, es posible que la infrecuencia ostensible de reacciones Paul‐Bunnell positivas antes de los 5 años de edad, pueda explicarse, por lo menos en parte, por un defecto de la facultad de formar anticuerpos durante ese período. La «Drüsen‐fieber» (fiebre ganglionar) epidémica infantil, tiene caracter patológico heterogéneo. Por consiguiente, no conviene generalizar la identidad o no‐identificación de esta condición, con casos típioos seropositives de mononucleosis infecciosa. Se expone una breve relación de epidemia «seudomononucleosa» en niños pequeños. Los síntomas clinicos más salientes, fueron fiebre, ampliación glandular, esplenohepatomegalia, exantema y anomalías del cuadro leucocitario. Las pruebas serológicas (reacción Paul‐Bunnell, toxoplasmosis, herpes simple y parotiditis), fueron consistentemente negativas, salvo en un caso de reciente infección probable de herpes simple.
Hình thành khí quản, một tình trạng như nang phát triển trong nhu mô phổi, là một biến chứng hiếm gặp của viêm phổi ở trẻ sơ sinh. Nó đã được báo cáo xảy ra với các nhiễm trùng do
Sữa mẹ cung cấp một nguồn cung cấp excellent cho hầu hết các chất dinh dưỡng cần thiết cho trẻ sơ sinh. Công thức dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh nên có giá trị dinh dưỡng tương đương với sữa mẹ, đặc biệt liên quan đến các chất dinh dưỡng quan trọng như sắt và các nguyên tố vi lượng khác. Công thức dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh được bổ sung với nhiều lượng lactoferrin từ bò đã được đưa cho hai nhóm trẻ sơ sinh. Những trẻ sơ sinh này được so sánh với những trẻ nhận công thức không bổ sung và những trẻ bú mẹ. Tác động của các chế độ ăn này đến các mức hemoglobin, hematocrit, sắt huyết thanh, ferritin và kẽm đã được kiểm tra trong một khoảng thời gian nghiên cứu là 150 ngày. Tại thời điểm sinh, nồng độ sắt, hemoglobin, hematocrit và kẽm tương đương ở cả bốn nhóm cho ăn. Thực tế là nồng độ kẽm huyết thanh không bị thay đổi do sự bổ sung lactoferrin dường như loại trừ ảnh hưởng in-vivo của lactoferrin đến dinh dưỡng kẽm của trẻ sơ sinh. Mức ferritin của trẻ bú mẹ cao hơn đáng kể so với trẻ uống công thức không bổ sung ở ngày thứ 30 và ngày thứ 90. Sự khác biệt này chỉ thấy ở ngày 30, khi so sánh trẻ bú mẹ với trẻ uống công thức đã bổ sung lactoferrin. So với trẻ uống công thức, công thức bổ sung với lượng lactoferrin từ bò cao hơn đã tạo ra mức ferritin huyết thanh cao hơn đáng kể so với công thức không bổ sung ở ngày 90 và ngày 150. Những quan sát này thuận lợi cho ý tưởng rằng lactoferrin có thể tham gia vào quá trình hấp thụ sắt. Vì hiệu ứng này chỉ rõ ràng sau 90 ngày, nên cần thảo luận về việc liệu hiệu ứng này có phải là một lập luận thuyết phục cho việc bổ sung lactoferrin từ bò vào công thức trẻ sơ sinh hay không.
Những quan điểm của phụ nữ về chất lượng dịch vụ sinh nở mà họ nhận được đã được ghi nhận trong một nghiên cứu nhỏ tại các thành phố Archangelsk và Murmansk vào tháng 2 năm 1999. Sáu nhà hộ sinh đã tham gia; một bệnh viện đã được chỉ định là Bệnh viện Thân thiện với Trẻ sơ sinh (BFH) theo các tiêu chí toàn cầu nghiêm ngặt của Sáng kiến Bệnh viện Thân thiện với Trẻ sơ sinh (BFHI) được WHO/UNICEF khuyến nghị. Hai trong số các bệnh viện đã thực hiện những thay đổi sâu sắc trong thói quen cho ăn và theo đánh giá của chính họ gần như đạt được sự công nhận này, và được đưa vào nhóm BFH. Ba nhà hộ sinh còn lại thì xa rời việc tuân thủ phương pháp BFHI và được nhóm lại như là Bệnh viện Không Thân thiện với Trẻ sơ sinh (NBFH). Tổng cộng có 180 bà mẹ mới sinh đã trả lời bảng câu hỏi 60 mục về những trải nghiệm sinh nở và cho con bú của họ. Các câu hỏi được lựa chọn từ một protocol hiện có, WEB (Trải nghiệm của Phụ nữ về Sinh nở) được phát triển bởi một trong các tác giả (BC). Nghiên cứu là một phần của đánh giá không chính thức về năm năm hoạt động của BFHI ở khu vực Barents, được hỗ trợ bởi Na Uy, và cũng nhằm ghi nhận bất kỳ hiệu ứng tích cực nào mà BFHI mang lại cho các quy trình sản khoa một cách tổng thể.
After detection of a few clinical cases of methaemoglobinaemia (methb) in our NICU, a prospective clinical study was undertaken to determine the extent of the problem and to identify the causes. Consequently, during the following 8 months all haemoglobin tests included simultaneous measurements of methb on an OSM 3 hemoximeter (Radiometer): 8% (
Sedin, G., Hammarlund, K. and Strömberg, B. (Department of Paediatrics, University Hospital, Uppsala, Sweden). Transepidermal water loss in full‐term and pre‐term infants. Acta Paediatr Scand, Suppl. 305: 27–31, 1983.—The amount of water lost from the skin and the relation of the water loss to environmental factors, activity, body temperature, gestational age, nutritional status at birth and post‐natal age were studied in full‐term and pre‐term newborn infants. The method we used was non‐invasive and based on determination of the water vapour pressure gradient immediately above the skin surface. We found that the transepidermal water loss per unit time and area (TEWL; g/m2 h) could be calculated by using values from only three measurement sites. TEWL increased with activity and when body temperature was elevated above 37.1C. On the first day after birth TEWL in appropriate for gestational age (AGA) infants was exponentially related to gestational age, with much higher values in the most pre‐term infants than in full‐term infants. In full‐term small for gestational age (SGA) infants TEWL was significantly lower than in full‐term AGA infants. In pre‐term and full‐term AGA infants and in full‐term SGA infants we found an inverse linear relationship between ambient humidity and evaporation rate (ER; g/m2 h) from the skin. The level of ER and the slope of the relationship depended on the gestational age of the infant, with higher ER in the more pre‐term infants. Analysis of the relationship between ambient humidity and ER indicated that there is a gradual change in the permeability of the skin with gestational age. In pre‐term infants TEWL gradually decreased during the first weeks of life. In full‐term AGA infants TEWL was almost unchanged during these first weeks.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10