Walter de Gruyter GmbH
Công bố khoa học tiêu biểu
* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo
Enantioselective organocatalytic Michael additions affords useful building blocks for many biologically and medicinally relevant compounds. Ionically-tagged diphenylprolinol silyl ether efficiently catalyzes several Michael additions of aldehydes to nitroalkenes in ionic liquids. The Michael additions work well in ionic liquids; yields up to 95% and enantioselectivities up to 95% ee were achieved. Furthermore, in some cases, the catalytic system was reusable.
The conformational analysis of rasagiline [N-propargyl-1(R)-aminoindan] was performed by the density functional theory (DFT) B3LYP method using the 6–31++G (d,p) basis set. A single point energy calculations based on the B3LYP optimized geometries were also performed at MP2/6-31++G (d, p) level. The vibrational frequencies of the most stable conformer of rasagiline was calculated at the B3LYP level and vibrational assignments were made for normal modes on the basis of scaled quantum mechanical force field (SQM) method. The influence of mesylate and ethanedisulfonate salts on the geometry of rasagiline free base and its normal modes are also discussed.
The heterogeneous catalytic ignition of lean to stoichiometric n-butane/air mixtures were studied at various total pressures between 10 and 100 kPa and at temperatures equal to or larger than the critical ignition temperatures. The induction periods, ignition and extinction temperatures were measured under strict isothermal conditions. The discussion presented in this paper is based on several literature models. The data analysis allowed for the determination of the overall kinetic parameters. The rigorous isothermal conditions indicated that the extinction temperatures are lower than the ignition, a behavior different from the results obtained in stagnation-point flow reactors.
Trong bài tổng quan này (bao gồm 500 tài liệu tham khảo), cả hóa điện và phân tích điện hóa với các điện cực, cảm biến và máy dò dựa trên bột than carbon đều được quan tâm, khi sự chú ý được tập trung vào các hoạt động nghiên cứu trong những năm của thiên niên kỷ mới. Tất cả các khía cạnh quan trọng của lĩnh vực này đều được đề cập, từ các nghiên cứu cơ bản với bột than carbon làm vật liệu điện cực, qua việc kiểm tra tại phòng thí nghiệm các nguyên mẫu điện cực đầu tiên, đến các nghiên cứu cơ bản và nâng cao về các quá trình điện cực khác nhau và các hiện tượng khác, cho đến các ứng dụng thiết thực để xác định các ion vô cơ, phức chất và phân tử. Những ứng dụng này được trình bày trong một loạt bảng tổng hợp phong phú, cung cấp một khảo sát gần như đầy đủ về các phương pháp được công bố trong khoảng thời gian từ 2001 đến 2008. Cuối cùng, các xu hướng mới nhất và những thành tựu nổi bật cũng được phác thảo và triển vọng tương lai được đưa ra.
The original version of the article was published in Cent. Eur. J. Chem. 11(6) (2013) pp. 912–919. Unfortunately, the original version of this article contains a mistake in the Acknowledgement section. It should be written as “Partially financed from grant number 0680/B/H03/2011/40 and gratefully acknowledged. Paweł Mierczyński is a participant of START Programme.”
Một phức chất cadmium (II) mới, [Cd(bdmpp)(SeCN)2(H2O)] (1) (trong đó bdmpp = 2,6-bis(3,5-dimethyl-N-pyrazolyl)pyridine), đã được tổng hợp và đặc trưng bằng phân tích nguyên tố và quang phổ (IR, 1H-NMR và 13C-NMR, UV-Vis), nhiệt lượng quét vi sai, và nghiên cứu tán xạ tia X tinh thể đơn. Phân tích tia X cho thấy cấu trúc được kết tinh trong nhóm không gian đơn kính Cc với a = 9.031(2), b = 13.884(3), c = 16.910(3) Å, và Z = 4. Hình học xung quanh nguyên tử cadmium có cấu trúc hình lăng trụ méo với thiết lập CdN3Se2O. Các nguyên tử N của SeCN tham gia vào hai tương tác liên phân tử H-bonding mạnh tạo thành một mạng polymer supromolecular 3 chiều. Hình học và tần số dao động của phức chất 1 được tính toán bằng các phương pháp DFT (BLYP, B3LYP, B3PW91, MPW1PW91) phù hợp hơn với thực nghiệm so với các giá trị thu được bằng phương pháp ab-initio ngoại trừ các góc liên kết. Đồ thị orbital phân tử cũng đã được tính toán và hình dung ở cấp độ lý thuyết B3LYP/LanL2DZ.
Đã tiến hành một nghiên cứu Mối quan hệ cấu trúc-hoạt tính định lượng (QSAR) của các hợp chất coumarin bằng các thuật toán di truyền sử dụng các đặc tính vật lý hóa học, hình thái học, tính ưa nước và đặc điểm điện tử. Chúng tôi đã sử dụng hoạt tính chống oxy hóa thu được từ thí nghiệm của các dẫn xuất coumarin cụ thể chống lại phân tử gốc DPPH·. Các đặc tính phân tử như Đường đi/Randic Path, yếu tố ưa nước và độ cứng hóa học đã được chọn để đề xuất một mô hình toán học. Chúng tôi đã thu được hệ số tương quan tuyến tính với giá trị R2 = 96.65 và QLOO2 = 93.14. Việc đánh giá khả năng dự đoán của mô hình được thực hiện bằng cách áp dụng các phương pháp QASYM2, $\hat r^2 $ và Δrm2. Các hàm Fukui đã được tính toán cho các dẫn xuất coumarin nhằm tìm hiểu cơ chế hoạt động của chúng như là các chất chống oxy hóa chính. Chúng tôi cũng đã điều tra khả năng ức chế xanthine oxidase bằng các hợp chất coumarin này thông qua docking phân tử. Kết quả của chúng tôi cho thấy rằng các tương tác kỵ nước, tĩnh điện và liên kết hydro là rất quan trọng trong việc ức chế xanthine oxidase bởi các hợp chất coumarin.
Bột Mn3O4 đã được sản xuất từ Bùn Mangan Điện Phân (EMR). Sau khi hòa tan EMR trong axit sulfuric, dung dịch MnSO4 chứa nhiều ion khác nhau đã được thu nhận. Dung dịch này được tinh chế và sau đó thêm kiềm lỏng vào dung dịch MnSO4 đã được tinh chế, tạo ra Mn(OH)2. Hai phương pháp đã được sử dụng để sản xuất Mn3O4. Một phương pháp là oxy hóa Mn(OH)2 trong pha lỏng dưới áp suất khí quyển để thu được Mn3O4. Phương pháp còn lại là nung Mn(OH)2 ở nhiệt độ từ 500°C đến 700°C. Các mẫu đã chuẩn bị được nghiên cứu bằng nhiều kỹ thuật khác nhau, bao gồm nhiễu xạ tia X (XRD), quang phổ hồng ngoại biến đổi Fourier (FTIR) và thiết bị đo diện tích bề mặt riêng (BET). Phân phối kích thước hạt và đo lường từ tính được thực hiện trên máy phân tích kích thước hạt laser và máy đo từ tính mẫu rung (VSM). Thông qua XRD, FTIR và xác định tổng hàm lượng Mn (TMC), các sản phẩm thu được đã được xác nhận là một pha duy nhất Mn3O4. Diện tích bề mặt riêng của BET có thể đạt tới 32 m2 g−1. Kết quả cho thấy rằng các sản phẩm tổng hợp theo phương pháp oxy hóa dung dịch lỏng có diện tích bề mặt riêng cao hơn và kích thước hạt nhỏ hơn so với các sản phẩm được chuẩn bị theo phương pháp nung. Tuy nhiên, các sản phẩm thu được từ hai phương pháp trên không cho thấy sự khác biệt rõ ràng về thuộc tính từ tính.
Tóm tắt Một loạt các màng poly(vinyl alcohol) được gia cố bằng hydroxyapatite với các trọng lượng phần trăm khác nhau — 0%, 10%, 20%, 30%, 40% và 50% đã được tạo ra. Hydroxyapatite được chế tạo bằng phương pháp sol-gel sử dụng phosphat amoni đihydrat và canxi nitrat tetrasun hóa làm nguyên liệu đầu vào trong môi trường nước kiềm và sau đó được trộn với một dung dịch poly(vinyl alcohol), được chuẩn bị bằng cách hòa tan trong nước ở 85°C. Các hỗn hợp khác nhau được đúc vào khuôn và bay hơi trong 7 ngày ở nhiệt độ 30°C để thu được các màng mỏng 1 mm. Phổ FTIR được sử dụng để xác định các nhóm chức khác nhau trong các hợp chất. Đặc điểm hình thái bề mặt được kiểm tra bằng kính hiển vi điện tử quét (SEM). Các thử nghiệm sinh học trong ống nghiệm trong dịch huyết tương mô phỏng (SBF) được thực hiện trong tối đa 28 ngày, đặc biệt là cho màng chứa 50 wt.% HA. SEM được sử dụng để đặc trưng hóa vi cấu trúc bề mặt của các màng sinh hợp trước và sau khi ngâm trong SBF. Quan sát cho thấy sự hình thành các cụm trong màng tăng lên với lượng HA tăng. Các cụm được hình thành do sự kết tụ và sự phát triển tinh thể của các hạt HA trong quá trình hút ẩm của các màng. Đặc tính sinh học trong ống nghiệm được tìm thấy là tăng lên theo thời gian ngâm của vật liệu sinh hợp trong dịch huyết tương mô phỏng.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10