The Egyptian Journal of Otolaryngology

SCOPUS (2012-2023)ESCI-ISI

  2090-8539

 

 

Cơ quản chủ quản:  SPRINGER , Springer Nature

Lĩnh vực:
Otorhinolaryngology

Các bài báo tiêu biểu

Tinnitus suppression after cochlear implantation in patients with single-sided deafness
Tập 33 Số 1 - Trang 61-66 - 2017
Mehnaz Ahmed, Ahmed Khater
The effect of voice hygiene advices on Imams’ voice during Ramadan
Tập 33 Số 1 - Trang 94-102 - 2017
Ahmed Abdelhamid, Abdullah Al-Khoufi
Effect of adding platelet-rich plasma to fat grafts in myringoplasty
- 2018
Tamer Fawzy, Mohamed Hussein, Said Eid, S Guindi
Phát triển một bài kiểm tra đo lường khả năng hiểu lời nói bằng tiếng Ả Rập cho trẻ em Dịch bởi AI
Tập 29 Số 3 - Trang 202-206 - 2013
Samia Bassiouny, Mona Hegazi, Jilan F. Nassar, Mohsen A. Ibrahim, Aml S. Saber, Ahmed Hamid
Vn

Tóm tắt

Mục tiêu

Khả năng hiểu lời nói thường được biểu thị dưới dạng phần trăm các từ, câu hoặc âm vị được xác định chính xác bởi một người nghe hoặc một nhóm người nghe khi được nói bởi một hay nhiều người phát âm. Các rối loạn giao tiếp có thể có tác động tiêu cực đến khả năng hiểu lời nói. Đến nay, chưa có bài kiểm tra nào bằng tiếng Ả Rập đo lường khả năng hiểu lời nói.

Mục đích

Cần phát triển và chuẩn hóa một bài kiểm tra khả năng hiểu lời nói bằng tiếng Ả Rập một cách khách quan, có thể được sử dụng để ước lượng mức độ suy giảm của khả năng hiểu lời nói trong các rối loạn giao tiếp, nhằm phát triển một công cụ đánh giá hợp lệ và đáng tin cậy để đánh giá hiệu quả của các chương trình điều trị khác nhau cho các rối loạn giao tiếp khác nhau.

Bệnh nhân và phương pháp

Nghiên cứu này được thực hiện trên 200 trẻ em có độ tuổi từ 4–12 tuổi, có kỹ năng ngôn ngữ đã hoàn thiện hoặc tương đương với độ tuổi. Tất cả trẻ em đều được chọn ngẫu nhiên từ phòng khám ngoại trú về bệnh lý ngôn ngữ và có một trong năm rối loạn lời nói đã chọn ảnh hưởng đến khả năng hiểu lời nói. Mỗi trẻ tham gia nghiên cứu được thực hiện hai đánh giá: một đánh giá chủ quan về khả năng hiểu lời nói của trẻ và bài kiểm tra khả năng hiểu lời nói bằng tiếng Ả Rập đã được phát triển, nhằm mục đích là một đo lường khách quan.

Study of the effect of combined interferon and ribavirin therapy on the hearing profile of hepatitis C virus patients
Tập 31 Số 4 - Trang 237-243 - 2015
Samir Asal, Ossama Sobhy, Omneya Ismail, Essam Bedewy
Respiratory and voice outcomes of office-based injection laryngoplasty in patients with unilateral vocal fold paralysis
- 2021
Asser Elsaeed, Omayma Afsah, Waleed Moneir, Tamer Elhadidy, Tamer Abou-Elsaad
AbstractBackground

Injection laryngoplasty is a surgical procedure used in management of glottal insufficiency. The objective of this study was to assess respiratory and voice outcomes of office-based injection laryngoplasty in patients with unilateral vocal fold paralysis (UVFP). Ten patients underwent office-based injection via transcutaneous approach using Radiesse or hyaluronic acid. Auditory perceptual assessment (APA), voice handicap index (VHI), size of the glottic gap, acoustic parameters (jitter, shimmer, and harmonic to noise ratio), maximum phonation time (MPT), stroboscopic evaluation, pulmonary function tests (PFTs), and videofluoroscopic evaluation of swallowing were done pre-injection, 1 week and 3 months post-injection.

Results

Subjective and objective voice outcomes, in addition to laryngostroboscopic parameters improved after injection. Non-significant difference was found between pre- and post-injection results of the PFTs.

Conclusions

Office-based injection laryngoplasty is a safe and effective method for treating UVFP. Patients with glottic gap (< 1–3 mm) are perfect candidates for such procedure. Injection laryngoplasty improves patients’ voice quality and does not impair respiration.

Tỷ lệ và kết quả của các rối loạn khứu giác và vị giác ở bệnh nhân nhiễm SARS-CoV-2 nhập viện Dịch bởi AI
Tập 38 Số 1 - 2022
Mohammad Salah Mahmoud, Mohamed Taha, Ossama Mansour, Mohamed Amir, Tarek A. Hamdy, Waleed F. Ezzat, Abdelrahman Mohamed, Michael Rezk, Mina Saleeb, Mena Maher Nassif
Tóm tắt Bối cảnh

Tỷ lệ rối loạn khứu giác/vị giác ở những bệnh nhân nhiễm SARS-CoV-2 nhập viện có sự biến động lớn giữa các nghiên cứu khác nhau, dao động từ 5.6% ở các quần thể châu Á đến 86% ở các quần thể châu Âu. Nghiên cứu này nhằm phát hiện tỷ lệ và sự phục hồi của các rối loạn khứu giác/vị giác ở bệnh nhân nhiễm SARS-CoV-2 nhập viện tại một trung tâm điều trị cấp ba ở Ai Cập. Tổng cộng có 579 bệnh nhân nhập viện đã được ghi danh. Dữ liệu nhân khẩu học cũng như các triệu chứng đường hô hấp trên bao gồm các rối loạn khứu giác/vị giác và các yếu tố nguy cơ khác đã được ghi nhận. Sau đó, sự phục hồi của các rối loạn khứu giác/vị giác sau 6 tháng đã được theo dõi.

Kết quả

50.6% có rối loạn khứu giác/vị giác (24.2% có mất mùi và vị hoàn toàn). Phân tích hồi quy logistic cho thấy có ý nghĩa thống kê giữa các rối loạn khứu giác/vị giác với giới tính nữ và sự hiện diện. Hầu hết bệnh nhân (88.4%) báo cáo đã hồi phục một phần hoặc hoàn toàn trong vòng 6 tháng (28.0% và 60.4%, tương ứng), trong khi 11.6% bệnh nhân không hồi phục. Thời gian trung vị để bắt đầu phục hồi là 3 ngày, và thời gian trung vị để đạt được hồi phục tốt nhất là 22 ngày.

Kết luận

Các rối loạn khứu giác/vị giác cần được nhận biết để phát hiện sớm nhiễm COVID-19. Hầu hết sự phục hồi của các rối loạn khứu giác/vị giác trong nhiễm COVID-19 bắt đầu trong vòng 3 ngày và đạt được hồi phục tốt nhất trong khoảng 19 đến 24 ngày. Giới tính nữ và sự hiện diện của các triệu chứng chung có liên quan đến các rối loạn khứu giác/vị giác ở các bệnh nhân COVID-19 nhập viện.