Klebsiella pneumoniae: một mối đe dọa ngày càng tăng đối với sức khỏe cộng đồng Dịch bởi AI Tập 19 Số 1 - 2020
Clement Yaw Effah, Tongwen Sun, Shaohua Liu, Yongjun Wu
Tóm tắt
Mục tiêu
Bài đánh giá này nhằm lấp đầy khoảng trống thông tin về K. pneumoniae như một tác nhân gây bệnh trong bệnh viện bằng cách cung cấp dữ liệu tổng hợp về các yếu tố nguy cơ dịch tễ học, xu hướng và hồ sơ kháng thuốc cùng với các gen kháng thuốc và độc lực của tác nhân này ở Châu Á.
Phương pháp
Tìm kiếm toàn diện đã được thực hiện bằng cách sử dụng PubMed, Web of Science và Google Scholar cho hầu hết các nghiên cứu liên quan đến tỷ lệ lưu hành, các yếu tố nguy cơ, các gen kháng thuốc và/hoặc các yếu tố độc lực của K. pneumoniae ở Châu Á. Dữ liệu được trích xuất cho phân tích tổng hợp đã được phân tích bằng phiên bản 3 của Comprehensive Meta Analysis. Dữ liệu xu hướng về tỷ lệ phân lập và tỷ lệ kháng thuốc đã được nhập vào bảng tính Excel và các kết quả được trình bày dưới dạng đồ thị.
Kết quả
Tỷ lệ kháng thuốc của K. pneumoniae được ghi nhận như sau; amikacin (40.8%) [95% CI 31.9–50.4], aztreonam (73.3%) [95% CI 59.9–83.4], ceftazidime (75.7%) [95% CI 65.4–83.6], ciprofloxacin (59.8%) [95% CI 48.6–70.1], colistin (2.9%) [95% CI 1.8–4.4], cefotaxime (79.2%) [95% CI 68.0–87.2], cefepime (72.6) [95% CI 57.7–83.8] và imipenem (65.6%) [95% CI 30.8–89.0]. Các gen kháng thuốc được ghi nhận trong nghiên cứu này bao gồm TEM (39.5%) [95% CI 15.4–70.1], SHV-11 (41.8%) [95% CI 16.2–72.6] và KPC-2 (14.6%) [95% CI 6.0–31.4]. Các yếu tố độc lực chủ yếu được K. pneumoniae sử dụng bao gồm; kiểu hình siêu nhầy và các gen liên quan đến nhầy, các gen tổng hợp lipopolysaccharide, các gen hấp thụ và vận chuyển sắt, và cuối cùng là các gen bám dính.
Kết luận
Có thể kết luận rằng, kháng thuốc kháng sinh ở K. pneumoniae là một mối đe dọa rõ ràng và hiện hữu ở Châu Á, cần có giám sát mạnh mẽ để kiềm chế tình trạng này. Việc các cơ quan y tế công cộng theo dõi và báo cáo sự thay đổi của các chủng kháng thuốc là vô cùng quan trọng.
Roles of rifampicin in drug-drug interactions: underlying molecular mechanisms involving the nuclear pregnane X receptor - 2006
Chen, Jiezhong, Raymond, Kenneth
Rifampicin, an important drug in the treatment of tuberculosis, is used extensively despite its broad effects on drug-drug interactions, creating serious problems. The clinical importance of such interactions includes autoinduction leading to suboptimal or failed treatment. The concomitantly administered effects of rifampicin on other drugs can result in their altered metabolism or transportation that are metabolised by cytochromes P450 or transported by p-glycoprotein in the gastrointestinal tract and liver. This review paper summarises recent findings with emphases on the molecular mechanisms used to explain these broad drug-drug interactions. In general, rifampicin can act on a pattern: rifampicin activates the nuclear pregnane X receptor that in turn affects cytochromes P450, glucuronosyltransferases and p-glycoprotein activities. This pattern of action may explain many of the rifampicin inducing drug-drug interactions. However, effects through other mechanisms have also been reported and these make any explanation of such drug-drug interactions more complex.
Mô hình nhạy cảm với kháng sinh của các chủng vi khuẩn từ nhiễm trùng vết thương và độ nhạy của chúng với các tác nhân địa phương thay thế tại Bệnh viện Đặc biệt Jimma, Tây Nam Ethiopia Dịch bởi AI Tập 13 - Trang 1-10 - 2014
Mohammedaman Mama, Alemseged Abdissa, Tsegaye Sewunet
Nhiễm trùng vết thương là một trong những vấn đề sức khỏe do sự xâm nhập và gia tăng của các sinh vật gây bệnh. Thông tin về các mầm bệnh địa phương và độ nhạy cảm với các tác nhân kháng khuẩn, cũng như các tác nhân địa phương như axit acetic là rất quan trọng để điều trị bệnh nhân thành công. Nghiên cứu nhằm xác định mô hình nhạy cảm kháng khuẩn của các chủng vi khuẩn từ nhiễm trùng vết thương và độ nhạy của chúng với các tác nhân địa phương thay thế tại Bệnh viện Đặc biệt Jimma. Một nghiên cứu cắt ngang đã được thực hiện trên bệnh nhân nhiễm trùng vết thương đến Bệnh viện Đặc biệt Jimma, từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2013. Mẫu vết thương được thu thập bằng cách sử dụng bông gòn vô trùng và được xử lý để phân lập vi khuẩn và kiểm tra độ nhạy với các tác nhân kháng khuẩn, axit acetic, hydrogen peroxide và dung dịch dabkin theo kỹ thuật vi sinh chuẩn. Các xét nghiệm sinh hóa được thực hiện để xác định loài của các sinh vật. Thử nghiệm độ nhạy được thực hiện bằng phương pháp khuếch tán đĩa Kirby-Bauer. Nồng độ ức chế tối thiểu và nồng độ diệt khuẩn tối thiểu được xác định bằng phương pháp pha loãng ống. Trong nghiên cứu này, 145 chủng vi khuẩn đã được thu hồi từ 150 mẫu cho thấy tỷ lệ phân lập là 87,3%. Vi khuẩn chiếm ưu thế được phân lập từ các vết thương nhiễm trùng là Staphylococcus aureus 47 (32,4%) tiếp theo là Escherichia coli 29 (20%), loài Proteus 23 (16%), Staphylococci không đông tụ 21 (14,5%), Klebsiella pneumoniae 14 (10%) và Pseudomonas aeruginosa 11 (8%). Tất cả các chủng đều cho thấy tỷ lệ kháng kháng sinh cao đối với ampicillin, penicillin, cephalothin và tetracycline. Mô hình kháng đa thuốc tổng thể được tìm thấy là 85%. Axit acetic (0,5%), dung dịch Dabkin (1%) và 3% hydrogen peroxide là diệt khuẩn đối với tất cả các vi khuẩn phân lập và hiệu ứng gây chết được quan sát thấy khi áp dụng trong 10 phút. Trong thử nghiệm độ nhạy in vitro, ampicillin, penicillin, cephalothin và tetracycline là những tác nhân kém hiệu quả nhất. Gentamicin, norfloxacin, ciprofloxacin, vancomycin và amikacin là những kháng sinh hiệu quả nhất. Axit acetic (0,5%), dung dịch dabkin (1%) và H2O2 (3%) là diệt khuẩn đối với tất cả các chủng vi khuẩn phân lập.
#nhiễm trùng vết thương #khuẩn #nhạy cảm với kháng sinh #tác nhân địa phương #Bệnh viện Đặc biệt Jimma
Tác động kháng khuẩn của fluoride diamin bạc đối với biofilm gây sâu răng đa loài trên các tổn thương sâu răng Dịch bởi AI - 2013
May Lei Mei, Quan-li Li, Chun Hung Chu, LP Samaranayake
Tóm tắt
Thông tin nền
Fluoride diamin bạc (SDF) đã cho thấy thành công lâm sàng trong việc ngăn chặn sâu răng ở ngà. Nghiên cứu này nhằm mục đích điều tra cơ chế hoạt động của nó.
Phương pháp
Chúng tôi đã sử dụng một miệng giả được điều khiển bằng máy tính để nghiên cứu ảnh hưởng của SDF 38% đối với biofilm gây sâu răng và các tổn thương sâu ở ngà. Chúng tôi đã sử dụng năm loại vi khuẩn gây sâu răng phổ biến (Streptococcus mutans, Streptococcus sobrinus, Lactobacillus acidophilus, Lactobacillus rhamnosus và Actinomyces naeslundii) để tạo ra một biofilm gây sâu răng, dẫn đến các tổn thương sâu với độ sâu khoảng 70 um trên các khối ngà người. Chúng tôi đã áp dụng SDF 38% lên các tổn thương trong nhóm thử nghiệm và nước lên các tổn thương trong nhóm đối chứng. Các khối ngà được ủ trong miệng giả trong 21 ngày trước khi đánh giá. Động lực vi sinh, kiến trúc, khả năng sống sót và phân bố được đánh giá mỗi 7 ngày thông qua đơn vị hình thành colony (CFU), kính hiển vi điện tử quét và kính hiển vi quét laser huỳnh quang. Các thuộc tính vật lý của các tổn thương sâu được đánh giá bằng thử nghiệm độ cứng vi mô, phổ năng lượng tán xạ (EDS) và phổ hồng ngoại biến đổi Fourier (FTIR).
Kết quả
Kết quả CFU cho thấy có ít đơn vị hình thành colony hơn trong nhóm thử nghiệm so với nhóm đối chứng (p < 0.01). Kính hiển vi điện tử quét và kính hiển vi huỳnh quang cho thấy sự phát triển của vi khuẩn ít hơn trong nhóm thử nghiệm, và biofilm gây sâu răng liên tục trong nhóm đối chứng (p < 0.01). Độ cứng vi mô và tỷ lệ phần trăm trọng lượng của canxi và photpho trong nhóm thử nghiệm từ lớp 50 um ngoài cùng cao hơn so với nhóm đối chứng (p < 0.05). EDS chỉ ra rằng canxi và photpho cao hơn trong lớp ngoài 50 um ở nhóm thử nghiệm so với nhóm đối chứng. FTIR cho thấy collagen I ít bị lộ hơn trong các tổn thương thử nghiệm so với nhóm đối chứng (p < 0.01).
Kết luận
SDF 38% ức chế sự hình thành biofilm gây sâu răng đa loài trên các tổn thương sâu ở ngà và làm giảm quá trình demineral hóa.
Kháng sinh của các chủng Escherichia coli gây nhiễm trùng đường tiết niệu trong cộng đồng và bệnh viện, London 2005 – 2006 Dịch bởi AI - 2008
David C. Bean, D. Krahé, David W. Wareham
Tóm tắt
Bối cảnh
Escherichia coli là nguyên nhân phổ biến nhất gây nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI) cộng đồng và trong bệnh viện. Việc điều trị bằng kháng sinh thường dựa trên dữ liệu nhạy cảm từ các nghiên cứu giám sát địa phương. Do đó, chúng tôi đã tiến hành để xác định mức độ kháng thuốc đối với 8 tác nhân kháng khuẩn thường dùng trong số tất cả các chủng phân lập từ nước tiểu thu được trong vòng 12 tháng.
Phương pháp
Khả năng nhạy cảm với kháng sinh đối với ampicillin, amoxicillin/clavulanate, cefalexin, ciprofloxacin, gentamicin, nitrofurantoin, trimethoprim và cefpodoxime đã được xác định cho 11,865 chủng E. coli trong nước tiểu thu được từ bệnh nhân cộng đồng và bệnh nhân nội trú ở Đông London.
Kết quả
Nitrofurantoin là tác nhân hoạt động mạnh nhất (94% nhạy cảm), tiếp theo là gentamicin và cefpodoxime. Tỷ lệ kháng cao đối với ampicillin (55%) và trimethoprim (40%) thường xảy ra kết hợp trong cả hai nhóm mẫu phân lập được quan sát thấy. Mặc dù các mẫu thể hiện sự kháng thuốc với nhiều nhóm thuốc là hiếm, sự kháng cefpodoxime, cho thấy sự sản xuất β-lactamase mở rộng, đã được quan sát ở 5,7% các mẫu cộng đồng và 21,6% các mẫu bệnh viện.
Kết luận
Trừ nitrofurantoin, sự kháng lại các tác nhân thường được dùng làm liệu pháp uống thực nghiệm cho UTI là cực kỳ cao. Mức độ kháng lại trimethoprim và ampicillin khiến chúng không thích hợp cho việc sử dụng thực nghiệm. Cần tiếp tục giám sát và điều tra các tác nhân uống khác để điều trị UTI trong cộng đồng.
Hoạt tính ức chế của chiết xuất cây gia vị Ấn Độ Cinnamomum zeylanicum đối với Alternaria solani và Curvularia lunata, các nấm mốc gây bệnh thuộc loại dematiaceous Dịch bởi AI - 2009
Ajay Kumar Mishra, Ashish Kumar Mishra, HK Kehri, Bechan Sharma, Abhay K. Pandey
Tóm tắt
Giới thiệu
Các nấm mốc màu đen (dematiaceous moulds) là những sinh vật gây bệnh và đóng vai trò như tác nhân nguyên nhân gây ra nấm với những mức độ nghiêm trọng khác nhau ở người và động vật. Những nấm này cũng gây mất mùa vụ và thiệt hại cho thực phẩm lưu trữ. Thông tin về hiệu quả kháng nấm của các chế phẩm từ thực vật đối với những nấm này còn rất hạn chế. Nghiên cứu hiện tại tiết lộ sự đặc trưng về hóa thực vật và tác động của chiết xuất vỏ và lá của cây gia vị Ấn Độ, Cinnamomum zeylanicum (Cz), đối với sự phát triển của hai loài nấm mốc dematiaceous, Alternaria solani và Curvularia lunata.
Phương pháp
Chiết xuất vỏ và lá của Cz được chiết liên tiếp trong các dung môi khác nhau bằng cách sử dụng thiết bị Soxhlet. Các phân tích hóa thực vật của các chiết xuất được thực hiện theo các giao thức tiêu chuẩn. Thí nghiệm sinh học kháng nấm của các chiết xuất được thực hiện bằng kỹ thuật giọt treo. Sự ức chế sự nảy mầm của bào tử nấm được theo dõi dưới ảnh hưởng của ba nồng độ chiết xuất khác nhau.
Kết quả
Nồng độ thử nghiệm thấp nhất (50 μg/ml) của chiết xuất vỏ Cz chiết trong acetone và chiết xuất lá Cz trong ether dầu mỏ và ethanol đã thể hiện sự ức chế hoàn toàn (100%) sự nảy mầm bào tử ở cả hai loài nấm. Ở nồng độ 100 μg/ml, tất cả các chiết xuất cho thấy sự ức chế khoảng 50 đến 100%. Tuy nhiên, việc điều trị các bào tử của hai loài nấm với nồng độ cao nhất (500 μg/ml) của chiết xuất vỏ và lá trong tất cả các dung môi đã cho thấy hoạt tính diệt nấm 100% vì nó ngăn chặn hoàn toàn sự nảy mầm của bào tử. Hoạt tính tương đối thấp hơn của các chiết xuất nước ở nồng độ 50 và 100 μg/ml cho thấy rằng các thành phần kháng nấm có trong vỏ và lá Cz hòa tan tốt hơn trong các dung môi hữu cơ so với nước.
Kết luận
Kết quả cho thấy rằng vỏ và lá của Cz chứa một số thành phần diệt nấm có hoạt tính chống nấm mốc tiềm năng đối với A. solani và C. lunata.