Spanish Journal of Agricultural Research

SCIE-ISI SCOPUS (2006-2023)

  1695-971X

  2171-9292

  Tây Ban Nha

Cơ quản chủ quản:  CONSEJO SUPERIOR INVESTIGACIONES CIENTIFICAS-CSIC , Instituto Nacional de Investigacion y Tecnologia Agraria y Alimentaria

Lĩnh vực:
Agronomy and Crop Science

Các bài báo tiêu biểu

Đánh giá. Sinh học và hệ thống học của dạng giống Rhizoctonia Dịch bởi AI
Tập 4 Số 1 - Trang 55-79
Vicente González García, M.A. Portal Onco, V. Rubio Susan

Các thành viên của dạng giống Rhizoctonia D.C. được coi là một hỗn hợp phức tạp của nấm sợi, có điểm chung là sở hữu một trạng thái không bào tử chưa hoàn thiện, thường được gọi là Rhizoctonia anamorph. Nhóm này bao gồm một số tác nhân gây bệnh cây trồng nghiêm trọng nhất như Thanatephorus cucumeris (Frank) Donk (anamorph=Rhizoctonia solani Kühn), phần lớn các cộng sinh mycorrhiza của lan (chủ yếu thuộc về giống Ceratobasidium D.P. Rogers) và một tập hợp các sinh vật saprotrophic có vị trí hệ thống khác nhau. Rhizoctonia anamorph được đặc trưng bởi một số đặc điểm chung có mặt trong toàn bộ phức tạp các loài Rhizoctonia. Các taxa từ nhóm này đã được phân loại lại thành một số nhóm nấm cao hơn, bao gồm cả Ascomycota và Basidiomycota, và chia thành nhiều giống, sử dụng các tiêu chí như phân tích và so sánh siêu cấu trúc của thiết bị vách ngăn. Cho đến rất gần đây, phân loại cho một số nhóm trong phức tạp này chủ yếu dựa trên các tiêu chí như sự nối ghép của sợi nấm, vì các loại đặc điểm chẩn đoán khác thường hiếm thấy ở những loại nấm này. Các nghiên cứu thực vật bệnh lý trong phức tạp này đã đại diện cho phần lớn những đóng góp trong nhóm, đặc biệt là trong trường hợp của R. solani. Một số thành viên của phức tạp này đã được báo cáo là các cô lập bảo vệ chống lại các thành viên gây bệnh của Rhizoctonia và một số tác nhân gây bệnh nấm khác. Bài đánh giá này tập trung vào việc hiểu biết về một số khía cạnh của các loài Rhizoctonia s. lato, chẳng hạn như vị trí phân loại hiện tại, sinh học và hệ thống học của một số nhóm trong phức tạp này, và một sự xem xét về các phương pháp được áp dụng trong việc nghiên cứu chúng.

Tác động của boscalid đối với sự phân hủy sau thu hoạch của dâu tây do Botrytis cinerea và Rhizopus stolonifer gây ra Dịch bởi AI
Tập 5 Số 1 - Trang 67-78
B. Sallato, René Torres, Juan Pablo Zóffoli, B. A. Latorre

Tại Chile, nấm mốc xám (Botrytis cinerea) và nấm làm thối (Rhizopus stolonifer) là những bệnh chính trong quá trình bảo quản dâu tây (Fragaria x ananassa Duch.) gây giảm đáng kể năng suất và chất lượng, hạn chế việc xuất khẩu quốc tế. Nghiên cứu đã tiến hành để xem xét ảnh hưởng của các phương pháp điều trị nấm trước thu hoạch và sau thu hoạch nhằm chống lại sự phân hủy trong quá trình bảo quản. Dựa trên kết quả thu được, tỷ lệ xuất hiện của B. cinerea và R. stolonifer trên trái dâu tây "Camarosa" được xử lý bằng boscalid hoặc boscalid + pyraclostrobin trong khoảng thời gian từ nở hoa đến thu hoạch đã giảm đáng kể. Tương tự, tỷ lệ xuất hiện của B. cinerea và R. stolonifer cũng giảm đáng kể ở 5 độ C và 20 độ C sau khi xử lý ngâm với boscalid (600 đến 700 mg LE-1) hoặc cyprodinil + fludioxonil (371 + 250 mg LE-1). Những phương pháp điều trị sau thu hoạch này cung cấp sự bảo vệ 5 và 15 ngày đối với các loại nấm mốc này khi trái dâu tây được bảo quản ở 20 độ C và 5 độ C tương ứng. Fenhexamid (750 mg LE-1) đã ngăn chặn B. cinerea, nhưng không có hiệu quả đối với R. stolonifer. Kết quả biến động đã được thu được với iprodione (750 mg LE-1). Các phương pháp điều trị bằng thuốc nấm không có tác động tiêu cực đến tổng hàm lượng hòa tan, độ axit có thể chuẩn và độ cứng của trái. Chỉ có boscalid + pyraclostrobin ảnh hưởng đến màu sắc bên ngoài của các trái dâu được xử lý. Kết luận, các phương pháp điều trị bằng thuốc nấm sử dụng các loại thuốc nấm có nguy cơ giảm thiểu mới có thể hữu ích để kéo dài thời gian bảo quản của dâu tây lên đến hơn 15 ngày. Tuy nhiên, cần tiến hành nghiên cứu thêm để thiết lập một khuyến nghị thương mại.

Tác động của melatonin đối với năng lực noãn trong ống nghiệm và sự phát triển phôi ở cừu. Dịch bởi AI
Tập 8 Số 1 - Trang 35-41
Adriana Casao, J.A. Abecia, J A Cebrián-Pérez, T. Muiño Blanco, M.I. Vázquez, F. Forcada

Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá tác động của melatonin đến sự trưởng thành và thụ tinh trong ống nghiệm của noãn cừu, cũng như quá trình nuôi cấy phôi trong ống nghiệm. Noãn từ buồng trứng cừu thu thập tại lò mổ được chia thành bốn nhóm, hai trong số đó được xử lý với melatonin với nồng độ 10E–5 M (M5) hoặc 10E–6 M (M6), trong khi hai nhóm khác đóng vai trò là nhóm đối chứng không được xử lý (C5 và C6). Sau khi thụ tinh trong ống nghiệm bằng tinh trùng tươi của cừu đực, phôi tạo ra trong mỗi nhóm được chia thành hai bộ, một bộ được nuôi cấy với melatonin (M5M, C5M, M6M và C6M), và bộ còn lại không có melatonin (M5C, C5C, M6C và C6C). Nồng độ melatonin 10E–6 M đã cải thiện tỷ lệ trưởng thành (82,5% so với 73,7% của M6 và C6, tương ứng; P < 0,05) và có xu hướng tăng tỷ lệ phân cắt 36 giờ sau khi thụ tinh trong ống nghiệm (79,4% so với 72,6% của M6 và C6, tương ứng, P = 0,08). Nồng độ melatonin cao hơn (10E–5 M) không có ảnh hưởng đáng kể đến các thông số đó. Tỷ lệ phôi nang vào ngày thứ 8 không khác biệt đáng kể giữa các nhóm.

#Melatonin #noãn cừu trong ống nghiệm #thụ tinh trong ống nghiệm #nuôi cấy phôi #trưởng thành noãn #phát triển phôi #năng lực noãn #cừu.
Xác định nấm men và vi khuẩn sống trên bề mặt lá nho có tiềm năng kiểm soát bệnh mốc xám gây ra bởi Botrytis cinerea trên nho ăn liền Dịch bởi AI
Tập 16 Số 1 - Trang e1002
Kazem Kasfi, Parissa Taheri, Behrooz Jafarpour, Saeed Tarighi

Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định nấm men và vi khuẩn sống trên bề mặt lá nho để kiểm soát Botrytis cinerea trên nho. Các nấm men và vi khuẩn đối kháng được phân lập từ hệ thực vật sống trên bề mặt liên quan đến quả nho và lá của giống nho ‘Thompson seedless’ từ các vườn nho ở Iran và được xác định thông qua phân tích trình tự các vùng gen bảo tồn. Tổng cộng có 130 mẫu nấm men và vi khuẩn từ bề mặt của cây nho đã được sàng lọc in vitro để xác định tác động đối kháng của chúng đối với B. cinerea và sử dụng để kiểm soát bệnh mốc xám sau thu hoạch. Trong số 130 mẫu, năm mẫu nấm men và bốn mẫu vi khuẩn cho thấy hoạt tính đối kháng lớn nhất in vitro đối với B. cinerea. Hai loài nấm men bao gồm Meyerozyma guilliermondii và Candida membranifaciens có khả năng đối kháng cao đối với tác nhân gây bệnh. Bên cạnh đó, bốn mẫu vi khuẩn thuộc dòng Bacillus sp. và Ralstonia sp. cũng cho thấy tác động kiểm soát sinh học đáng kể đối với B. cinerea. Các mẫu này có khả năng sản xuất các chất dễ bay hơi và không dễ bay hơi, có thể ức chế sự phát triển của tác nhân gây bệnh. Hoạt tính đối kháng của các nấm men và vi khuẩn được chọn đối với tác nhân gây bệnh đã được nghiên cứu trên các quả nho ‘Thompson seedless’ bị tổn thương. Trên các chùm nhỏ có quả nho nguyên vẹn, tất cả các mẫu đối kháng đã giảm đáng kể sự phân hủy trên quả nho, và tỷ lệ mốc xám trên quả được điều trị bởi các mẫu này thấp hơn 50%, ngoại trừ mẫu N1, mẫu này có khả năng ức chế sự xuất hiện của bệnh cao hơn. Những kết quả này gợi ý rằng nấm men và vi khuẩn đối kháng với tiềm năng kiểm soát B. cinerea trên nho có thể được tìm thấy trong hệ vi sinh vật của quả nho và lá nho.

#nấm men #vi khuẩn #kiểm soát sinh học #Botrytis cinerea #bệnh mốc xám #nho
Hiệu quả sử dụng nước của cây sinh khối sorghum được tưới trong môi trường Địa Trung Hải Dịch bởi AI
Tập 11 Số 4 - Trang 1153-1169
Pasquale Garofalo, Michele Rinaldi

Hiện nay, một sự quan tâm lớn đang được dồn vào các cây trồng không phải lương thực như một nguồn năng lượng thay thế. Một trong số các loại cây này là cây sinh khối sorghum (Sorghum bicolor L. Moench) nhờ vào năng suất sinh khối cao và hiệu quả sử dụng tia nắng mặt trời và nước tốt. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá phản ứng của cây sinh khối sorghum đối với nước trong môi trường Địa Trung Hải. Cây sinh khối sorghum đã được áp dụng bốn chế độ tưới khác nhau, tương ứng với 50, 75, 100 và 125% ETc trong ba năm (2008, 2009 và 2010). Hiệu quả sử dụng nước (WUE), hiệu quả sử dụng nước tưới (IWUE) và chỉ số căng thẳng nước (WSI) đã được tính toán. Khối lượng chất khô của cây và chỉ số diện tích lá cho thấy sự khác biệt giữa ba năm, và sự khác biệt giữa các chế độ tưới trở nên rõ ràng hơn vào năm 2009. Nội dung nước trong đất khác nhau tại thời điểm gieo hạt giữa ba năm thí nghiệm đã ảnh hưởng đến đà phát triển trong suốt chu kỳ sinh trưởng của cây, giải thích cho sự khác biệt về sự tích lũy sinh khối, mở rộng lá và tiêu thụ nước. WUE cao hơn ở năm 2009 so với năm 2008 và 2010 với không có sự khác biệt giữa các chế độ tưới trong năm thí nghiệm đầu tiên và năm thứ ba. Sử dụng nước (WU) nằm trong khoảng từ 891 đến 566 mm, khối lượng sinh khối khô trên mặt đất từ 4097 đến 1825 g m-2 và WUE từ 8.49 đến 4.00 kg m-3. IWUE, tương tự như WUE, cũng cao hơn trong năm thứ hai so với năm thứ nhất và năm thứ ba, nhưng có sự khác biệt giữa các chế độ tưới trong các năm 2008 và 2010. WUE được tính toán từ WU được chuẩn hóa với VPD đưa ra một tham số ổn định hơn trong cả ba năm. Nghiên cứu này đã chỉ ra tính thích hợp của cây sinh khối sorghum như một loại cây năng lượng trong môi trường Địa Trung Hải và khả năng sử dụng nước một cách hiệu quả.

Phản ứng của cây đào sớm [Prunus persica (L.)] đối với tưới thiếu nước Dịch bởi AI
Tập 8 - Trang 30-39
Isabel Abrisqueta, L.M. Tapia, Wenceslao Conejero, M. I. Sanchez-Toribio, J.M. Abrisqueta, Juan Vera, M.C. Ruiz-Sánchez

Ảnh hưởng của các chiến lược tưới khác nhau đến mối quan hệ nước, sự phát triển thực vật và năng suất của cây đào sớm, được trồng ở Murcia (Tây Ban Nha) đã được nghiên cứu trong hai năm. Các biện pháp điều trị bao gồm: T1, là đối chứng, tưới đầy đủ (150% nhu cầu nước cây trồng - ETc); T2, tưới thiếu liên tục ở mức 50% ETc; T3, tưới thiếu được điều chỉnh (RDI), tưới ở mức 100% ETc chỉ trong giai đoạn III của sự phát triển trái cây và 25% trong phần còn lại của mùa sinh trưởng; và T4, với điều khiển tưới tự động dựa trên dữ liệu từ cảm biến điện dung loại FDR, thay đổi giá trị ngưỡng. Kết quả cho thấy rằng việc thiếu nước trong các biện pháp điều trị T2 và T3 đã tạo ra giá trị độ ẩm đất và tiềm năng nước thân cây (Ψstem) thấp nhất trong thời kỳ thu hoạch (ví dụ: ψstem giảm xuống -1.8 MPa ở T3 trong mùa hè 2008); từ đó, sự giảm sút trong sự phát triển thân và trọng lượng cắt tỉa so với giá trị của biện pháp đối chứng đã được ghi nhận trong cả hai năm. Ngoài ra, năng suất đào cũng giảm đáng kể trong cả hai biện pháp tưới thiếu. Việc tiết kiệm nước tưới lớn nhất trong biện pháp T3 (≈60%) đã làm gia tăng các giá trị hiệu quả sử dụng nước trong biện pháp này. Vì lý do này, việc thiếu nước trong các thời kỳ thu hoạch (kéo dài ở các giống chín sớm) cần phải được giới hạn nếu không muốn giảm năng suất trái cây. Lịch tưới dựa trên cảm biến điện dung đã trở thành công cụ hữu ích trong việc kiểm soát độ ẩm đất. Khi các giá trị ngưỡng được xác định chính xác, những thiếu hụt nước nhẹ chỉ giới hạn sự phát triển thực vật trong khi duy trì năng suất đào tương tự với cây được tưới tốt.

Các hạn chế về nhập khẩu thức ăn biến đổi gen của EU: Tác động đến ngành chăn nuôi Tây Ban Nha, EU và toàn cầu Dịch bởi AI
Tập 8 Số 1 - Trang 3-17
George Philippidis

Trong thập kỷ qua, nhiều tranh cãi đã diễn ra xung quanh việc sử dụng công nghệ sinh vật biến đổi gen (GMO) trong nông nghiệp thương mại. Cụ thể hơn, có lo ngại rằng GMO có thể đưa vào chuỗi thực phẩm những dị ứng tố mới hoặc góp phần làm gia tăng sự kháng kháng sinh. Hiện tại, Liên minh châu Âu (EU) áp dụng chính sách không khoan nhượng đối với các nhập khẩu GMO "không được phê duyệt", trong khi quy trình phê duyệt không theo kịp với sự gia tăng các giống GMO mới. Trong các lĩnh vực chăn nuôi của EU, sự không tương thích rõ ràng này đe dọa làm gián đoạn nguồn cung cấp đầu vào thức ăn giàu protein (ví dụ, bột đậu nành) từ các quốc gia có quy định lỏng lẻo hơn về GMO. Sử dụng một khung mô hình cân bằng tổng quát tính toán đa vùng nổi tiếng, nghiên cứu này đánh giá một cách định lượng tác động của một lệnh cấm nhập khẩu giả định của EU đối với các giống đậu nành và ngô GMO không được phê duyệt đối với các ngành chăn nuôi, thịt và sữa. Mã mô hình được điều chỉnh mạnh mẽ để cải thiện việc phân loại các lĩnh vực nông nghiệp và sử dụng đất, trong khi một cơ sở dữ liệu thực tế được sử dụng để cập nhật cơ sở dữ liệu toàn cầu đến năm 2008, năm mà lệnh cấm giả định được thực hiện. Trong kịch bản "tồi tệ nhất", có tổn thất cạnh tranh đáng kể trong các lĩnh vực chăn nuôi, thịt và sữa của EU. Tại Tây Ban Nha, các tác động tiêu cực đặc biệt rõ rệt do tầm quan trọng của sản xuất heo trong nông nghiệp. Ngược lại, bảng cân đối thương mại của tất cả các vùng ngoài EU đều cải thiện, với những lợi ích thương mại đáng kể tại Mỹ và Brazil. Để kết luận, EU cần khẩn trương tìm một chiến lược lâu dài cho GMO nếu muốn hòa giải giữa tính chính trị kịp thời với các mối quan tâm kinh tế thực tiễn.

#GMO #EU #chăn nuôi #bột đậu nành #nhập khẩu #thịt #sữa