Tác động của boscalid đối với sự phân hủy sau thu hoạch của dâu tây do Botrytis cinerea và Rhizopus stolonifer gây ra

Spanish Journal of Agricultural Research - Tập 5 Số 1 - Trang 67-78
B. Sallato1, René Torres1, Juan Pablo Zóffoli1, B. A. Latorre1
1Facultad de Agronomía e Ingeniería Forestal. Pontificia Universidad Católica de Chile. Santiago

Tóm tắt

Tại Chile, nấm mốc xám (Botrytis cinerea) và nấm làm thối (Rhizopus stolonifer) là những bệnh chính trong quá trình bảo quản dâu tây (Fragaria x ananassa Duch.) gây giảm đáng kể năng suất và chất lượng, hạn chế việc xuất khẩu quốc tế. Nghiên cứu đã tiến hành để xem xét ảnh hưởng của các phương pháp điều trị nấm trước thu hoạch và sau thu hoạch nhằm chống lại sự phân hủy trong quá trình bảo quản. Dựa trên kết quả thu được, tỷ lệ xuất hiện của B. cinerea và R. stolonifer trên trái dâu tây "Camarosa" được xử lý bằng boscalid hoặc boscalid + pyraclostrobin trong khoảng thời gian từ nở hoa đến thu hoạch đã giảm đáng kể. Tương tự, tỷ lệ xuất hiện của B. cinerea và R. stolonifer cũng giảm đáng kể ở 5 độ C và 20 độ C sau khi xử lý ngâm với boscalid (600 đến 700 mg LE-1) hoặc cyprodinil + fludioxonil (371 + 250 mg LE-1). Những phương pháp điều trị sau thu hoạch này cung cấp sự bảo vệ 5 và 15 ngày đối với các loại nấm mốc này khi trái dâu tây được bảo quản ở 20 độ C và 5 độ C tương ứng. Fenhexamid (750 mg LE-1) đã ngăn chặn B. cinerea, nhưng không có hiệu quả đối với R. stolonifer. Kết quả biến động đã được thu được với iprodione (750 mg LE-1). Các phương pháp điều trị bằng thuốc nấm không có tác động tiêu cực đến tổng hàm lượng hòa tan, độ axit có thể chuẩn và độ cứng của trái. Chỉ có boscalid + pyraclostrobin ảnh hưởng đến màu sắc bên ngoài của các trái dâu được xử lý. Kết luận, các phương pháp điều trị bằng thuốc nấm sử dụng các loại thuốc nấm có nguy cơ giảm thiểu mới có thể hữu ích để kéo dài thời gian bảo quản của dâu tây lên đến hơn 15 ngày. Tuy nhiên, cần tiến hành nghiên cứu thêm để thiết lập một khuyến nghị thương mại.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo