Scientifica

SCOPUS (2014,2016-2023)ESCI-ISI

  2090-908X

  2090-908X

  Ai cập

Cơ quản chủ quản:  Hindawi Limited , HINDAWI LTD

Lĩnh vực:
Environmental Science (miscellaneous)Agricultural and Biological Sciences (miscellaneous)

Các bài báo tiêu biểu

Vi khuẩn thúc đẩy sự phát triển của thực vật: Cơ chế và Ứng dụng Dịch bởi AI
Tập 2012 - Trang 1-15 - 2012
Bernard R. Glick

Sự gia tăng cả về thiệt hại môi trường và áp lực dân số toàn cầu đã dẫn đến hệ quả đáng tiếc rằng sản xuất thực phẩm toàn cầu có thể sớm trở nên không đủ để nuôi sống tất cả mọi người trên thế giới. Do đó, việc tăng đáng kể năng suất nông nghiệp trong vài thập kỷ tới là điều thiết yếu. Để đạt được điều này, thực tiễn nông nghiệp đang chuyển hướng sang một cách tiếp cận bền vững và thân thiện với môi trường hơn. Điều này bao gồm việc sử dụng ngày càng nhiều các loại cây chuyển gen và vi khuẩn thúc đẩy sự phát triển của thực vật như một phần của thực hành nông nghiệp chính thống. Tại đây, một số cơ chế mà vi khuẩn thúc đẩy sự phát triển của thực vật sử dụng được thảo luận và xem xét. Người ta dự đoán rằng trong tương lai không xa, vi khuẩn thúc đẩy sự phát triển của thực vật (PGPB) sẽ bắt đầu thay thế việc sử dụng hóa chất trong nông nghiệp, làm vườn, lâm nghiệp và các chiến lược làm sạch môi trường. Mặc dù có thể không có một chiến lược đơn giản nào có thể thúc đẩy hiệu quả sự phát triển của tất cả các loại cây trồng trong mọi điều kiện, nhưng một số chiến lược được thảo luận đã cho thấy triển vọng lớn.

#vi khuẩn thúc đẩy sự phát triển của thực vật #thực hành nông nghiệp bền vững #cây chuyển gen #sinh học môi trường.
Độc tính tế bào In Vitro của vật liệu xi măng nội nha dựa trên silicat canxi như là vật liệu trám vào cuối r кори Dịch bởi AI
Tập 2016 - Trang 1-5 - 2016
Selen Küçükkaya Eren, Mehmet Ömer Görduysus, Dilara Zeybek, Sevda Müftüoğlu

Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá độc tính tế bào của ba loại xi măng nội nha dựa trên silicat canxi sau các thời gian ủ khác nhau với các nguyên bào sợi mô nha chu người. Các nguyên bào sợi mô nha chu người được nuôi cấy từ răng khôn bị nhổ và được đưa vào các đĩa 96 giếng. Xi măng MTA, hỗn hợp giàu canxi (CEM) và Biodentine được chuẩn bị và cho vào các đĩa nuôi cấy, sau đó ngay lập tức được đặt vào các đĩa 96 giếng chứa các tế bào đã nuôi cấy. Sau các khoảng thời gian ủ là 24, 48 và 72 giờ, khả năng sống sót của tế bào được xác định bằng phương pháp WST-1. Dữ liệu được phân tích thống kê bởi ANOVA với các phép đo lặp lại và kiểm tra Bonferroni. Không có sự khác biệt đáng kể về khả năng sống sót của tế bào giữa các vật liệu thử nghiệm sau mỗi khoảng thời gian ủ (P>0.05). MTA và CEM cho thấy hơn 90% khả năng sống sót của tế bào sau 24 và 48 giờ ủ và cho thấy sự giảm đáng kể về khả năng sống sót của tế bào sau 72 giờ ủ (P<0.05). Biodentine cho thấy khả năng sống sót của tế bào thấp hơn đáng kể (73%) sau 24 giờ ủ, trong khi mà hơn 90% khả năng sống sót của tế bào được ghi nhận sau 48 và 72 giờ ủ (P<0.05). Mặc dù có sự thay đổi đáng kể về khả năng sống sót của tế bào theo thời gian, nhưng các vật liệu vẫn trình bày một mẫu độc tính tương tự. Biodentine và CEM có thể được coi là các vật liệu thay thế cho các thủ tục phẫu thuật đầu r корi.

Spectum kháng khuẩn Sodium Selenite trong điều kiện In Vitro đối với các chủng vi khuẩn gây bệnh ở người được chọn Dịch bởi AI
Tập 2016 - Trang 1-4 - 2016
Mohammad Firoz Alam, Mohammed M. Safhi, Sivakumar S. Moni, Aamena Jabeen

Mục tiêu của cuộc điều tra này là dự đoán các tính chất kháng khuẩn của sodium selenite đối với các tác nhân gây bệnh ở người được chọn. Một nhóm sáu tác nhân gây bệnh vi khuẩn ở người, bao gồm Staphylococcus aureus, Streptococcus pyogenes, Bacillus subtilis, Escherichia coli, Pseudomonas aeruginosa, và Klebsiella planticola đã được sử dụng để sàng lọc. Phổ hoạt động đã được đánh giá dựa trên vùng ức chế. Nghiên cứu của chúng tôi chứng minh rằng sodium selenite thể hiện phổ hoạt động mạnh đối với Bacillus subtilis, Staphylococcus aureus, Escherichia coli, và Klebsiella planticola. Phổ hoạt động được so sánh với đĩa ciprofloxacin chuẩn (5 μg/disc) và được quan sát là có hiệu quả đáng kể.

Toxoplasma gondii - Gây ra sự thay đổi lâu dài trong vi sinh vật ở ruột trên trong giai đoạn nhiễm trùng mãn tính Dịch bởi AI
Tập 2018 - Trang 1-11 - 2018
Emese Prandovszky, Ye Li, Sarven Sabunciyan, Curtis B. Steinfeldt, Lauro N. Avalos, Kristin L. Gressitt, James R. White, Emily G. Severance, Mikhail Pletnikov, Jianchun Xiao, Robert H. Yolken

Toxoplasma gondii là một loại ký sinh trùng bắt buộc sống nội bào với phân bố toàn cầu. Mèo là vật chủ chính cho phép vòng đời hoàn chỉnh của T. gondii. Tuy nhiên, các động vật máu nóng khác như gặm nhấm và con người cũng có thể bị nhiễm. Nhiễm các vật chủ thứ cấp như vậy dẫn đến nhiễm trùng kéo dài, được đặc trưng bởi sự hiện diện của các nang mô trong não và các cơ quan khác. Mặc dù đã biết rằng nhiễm T. gondii ở gặm nhấm có liên quan đến những thay đổi hành vi, nhưng cơ chế đứng sau những thay đổi này vẫn chưa rõ ràng. Sự thay đổi của vi sinh vật đường ruột của vật chủ được công nhận là một yếu tố chính trong việc hình thành hành vi và nhận thức của vật chủ. Đã có nghiên cứu cho thấy nhiễm trùng T. gondii cấp tính ở chuột dẫn đến những thay đổi về vi sinh vật do tình trạng viêm đường tiêu hóa trong các mô hình chuột thuần chủng. Tuy nhiên, tác động lâu dài của nhiễm T. gondii mãn tính đối với cộng đồng vi sinh vật vẫn chưa được biết đến. Trong nghiên cứu này, sau khi xác minh bằng mô hình của chúng tôi về việc đo lường những thay đổi vi sinh vật trong một giai đoạn cấp tính của bệnh toxoplasmosis, chúng tôi đã đánh giá những thay đổi của vi sinh vật xảy ra trong thời gian nhiễm trùng kéo dài; sau đó, chúng tôi tiến hành điều tra những thay đổi này trong một nghiên cứu tiếp theo về nhiễm trùng mãn tính. Những phân tích này được thực hiện bằng cách xây dựng và giải trình tự các thư viện DNA amplicon 16S rRNA từ mẫu phân ở ruột non. Chúng tôi phát hiện rằng nhiễm trùng cấp tính với chủng GT1 của T. gondii đã gây ra sự phong phú của Bacteroidetes so với các mẫu đối chứng ở chuột CD1. Đáng chú ý, sự phong phú này vẫn được duy trì trong suốt thời gian nhiễm trùng mãn tính lâu dài. Những hậu quả sinh học tiềm năng của sự thay đổi này ở gặm nhấm và con người cần được khám phá thêm.