Độc tính tế bào In Vitro của vật liệu xi măng nội nha dựa trên silicat canxi như là vật liệu trám vào cuối r кори

Scientifica - Tập 2016 - Trang 1-5 - 2016
Selen Küçükkaya Eren1, Mehmet Ömer Görduysus2,1, Dilara Zeybek3, Sevda Müftüoğlu3
1Department of Endodontics, Faculty of Dentistry, Hacettepe University, 06100 Ankara, Turkey
2Department of Endodontics, Dental College, University of Sharjah, Sharjah, UAE
3Department of Histology and Embryology, Faculty of Medicine, Hacettepe University, 06100 Ankara, Turkey

Tóm tắt

Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá độc tính tế bào của ba loại xi măng nội nha dựa trên silicat canxi sau các thời gian ủ khác nhau với các nguyên bào sợi mô nha chu người. Các nguyên bào sợi mô nha chu người được nuôi cấy từ răng khôn bị nhổ và được đưa vào các đĩa 96 giếng. Xi măng MTA, hỗn hợp giàu canxi (CEM) và Biodentine được chuẩn bị và cho vào các đĩa nuôi cấy, sau đó ngay lập tức được đặt vào các đĩa 96 giếng chứa các tế bào đã nuôi cấy. Sau các khoảng thời gian ủ là 24, 48 và 72 giờ, khả năng sống sót của tế bào được xác định bằng phương pháp WST-1. Dữ liệu được phân tích thống kê bởi ANOVA với các phép đo lặp lại và kiểm tra Bonferroni. Không có sự khác biệt đáng kể về khả năng sống sót của tế bào giữa các vật liệu thử nghiệm sau mỗi khoảng thời gian ủ (P>0.05). MTA và CEM cho thấy hơn 90% khả năng sống sót của tế bào sau 24 và 48 giờ ủ và cho thấy sự giảm đáng kể về khả năng sống sót của tế bào sau 72 giờ ủ (P<0.05). Biodentine cho thấy khả năng sống sót của tế bào thấp hơn đáng kể (73%) sau 24 giờ ủ, trong khi mà hơn 90% khả năng sống sót của tế bào được ghi nhận sau 48 và 72 giờ ủ (P<0.05). Mặc dù có sự thay đổi đáng kể về khả năng sống sót của tế bào theo thời gian, nhưng các vật liệu vẫn trình bày một mẫu độc tính tương tự. Biodentine và CEM có thể được coi là các vật liệu thay thế cho các thủ tục phẫu thuật đầu r корi.

Từ khóa


Tài liệu tham khảo

10.1111/j.1365-2591.1985.tb00415.x

10.1016/s0300-9785(72)80005-x

10.1097/00004770-200005000-00010

10.1111/j.1601-1546.2005.00164.x

10.1016/S0099-2399(06)80271-2

10.1016/S0099-2399(06)80967-2

10.1016/j.joen.2009.09.009

10.1016/j.dental.2008.02.020

10.1016/j.dental.2012.11.007

10.1016/j.joen.2008.05.006

10.1111/j.1747-4477.2008.00137.x

2007, Iranian Endodontic Journal, 2, 105

10.5395/rde.2014.39.3.149

10.1016/j.tripleo.2005.12.020

10.4012/dmj.2013-171

10.1016/0267-6605(94)90088-4

10.1002/(sici)1097-4636(19990605)45:3<214::aid-jbm9>3.0.co;2-y

10.1016/j.dental.2015.01.004

10.1016/j.joen.2012.11.026

10.1111/j.1747-4477.2010.00269.x

10.1111/iej.12261

10.1016/j.joen.2013.11.006

10.4012/dmj.2013-123

10.1111/j.1365-2591.2006.01135.x

10.1016/j.dental.2013.03.007

10.1016/j.jdent.2014.11.004

10.1016/j.joen.2010.11.017

10.1016/j.joen.2010.02.011

10.1016/j.tripleo.2008.07.018

10.1111/j.1365-2591.2012.02027.x

10.1002/jor.1100120410

10.1016/j.joen.2007.07.012

10.1016/j.tripleo.2007.08.001

10.1002/jbm.a.35099

10.1111/j.1365-263x.2012.01224.x

10.1016/j.joen.2010.03.005

10.1016/j.joen.2013.01.005