Plant Disease

  0191-2917

  1943-7692

  Mỹ

Cơ quản chủ quản:  American Phytopathological Society , AMER PHYTOPATHOLOGICAL SOC

Lĩnh vực:
Plant ScienceAgronomy and Crop Science

Các bài báo tiêu biểu

Comparison of Two Media Selective for<i>Phytophthora</i>and<i>Pythium</i>Species
Tập 70 Số 11 - Trang 1038 - 1986
S. N. Jeffers
Nỗ Lực Phối Hợp Để Chống Lại Kẻ Thù Của Lúa Mì và Lúa Mạch: Bệnh Thối Đầu Con Gié Fusarium
Tập 96 Số 12 - Trang 1712-1728 - 2012
Michael S. McMullen, Gary C. Bergstrom, E. D. De Wolf, Ruth Dill‐Macky, D. E. Hershman, Gregory Shaner, Dave Van Sanford

Lúa mì và lúa mạch là những cây lương thực và làm thức ăn gia súc quan trọng trên khắp thế giới. Lúa mì được trồng trên diện tích lớn hơn bất kỳ cây trồng nào khác trên toàn cầu. Tại Hoa Kỳ, sản xuất lúa mì và lúa mạch đóng góp vào nhu cầu lương thực và thức ăn gia súc trong nước, cũng như góp phần vào thị trường xuất khẩu và cán cân thương mại. Mười lăm năm trước, tạp chí Plant Disease đã xuất bản một bài viết nổi bật mang tiêu đề “Bệnh Thối Đầu Con Gié Lúa Mì và Lúa Mạch: Một căn bệnh tái xuất với tác động tàn phá”. Bài viết đó mô tả loạt các đại dịch bệnh thối đầu con gié (Fusarium head blight - FHB) nghiêm trọng xảy ra tại Hoa Kỳ và Canada, chủ yếu từ năm 1991 đến năm 1996, với nhấn mạnh vào những tác động kinh tế và xã hội chưa từng có gây ra bởi đại dịch bệnh FHB năm 1993 trên các loại hạt mùa xuân tại vùng Northern Great Plains. Các ấn phẩm trước đó đã xử lý phạm vi và thiệt hại do bệnh này tại Hoa Kỳ, Canada, châu Âu và Trung Quốc. Các đánh giá được công bố sau năm 1997 đã mô tả thêm về căn bệnh này và ảnh hưởng của nó đối với sản xuất ngũ cốc ở Bắc Mỹ trong thập niên 1990. Bài báo này đánh giá lại căn bệnh và tài liệu về các đại dịch bệnh FHB ở Hoa Kỳ kể từ năm 1997. Mục tiêu chính của bài báo này là tóm tắt một chương trình nghiên cứu phối hợp và hợp tác bền vững được triển khai ngắn sau đại dịch năm 1993, một chương trình nhằm nhanh chóng đưa đến các chiến lược quản lý cải tiến và triển khai việc tiếp cận cộng đồng. Chương trình này đóng vai trò như một mô hình để xử lý các mối đe dọa bệnh cây trồng mới nổi khác.

#Lúa mì #Lúa mạch #Bệnh thối đầu con gié Fusarium #Đại dịch #Quản lý bệnh hại #Nghiên cứu phối hợp
Potato and Tomato Late Blight Caused by <i>Phytophthora infestans</i>: An Overview of Pathology and Resistance Breeding
Tập 96 Số 1 - Trang 4-17 - 2012
Marcin Nowicki, Majid R. Foolad, Marzena Nowakowska, Elznieta U. Kozik
Epidemiology and Control of Citrus Black Spot in South Africa
Tập 65 Số 12 - Trang 945 - 1981
J. M. Kotzé
Fusarium Foot Rot of Wheat and Its Control in the Pacific Northwest
Tập 64 Số 12 - Trang 1061 - 1980
Robert Cook
Detection of <i>Clavibacter michiganensis</i> subsp. <i>sepedonicus</i> in Potato Tubers by BIO-PCR and an Automated Real-Time Fluorescence Detection System
Tập 83 Số 12 - Trang 1095-1100 - 1999
N. W. Schaad, Yvette Berthier‐Schaad, A. Sechler, David A. Knorr

Ring rot of potato, caused by Clavibacter michiganensis subsp. sepedonicus, is one of the most regulated diseases of potatoes world wide. The organism is often difficult to detect in symptomless tubers because of low populations and slow competitive growth on available media. Polymerase chain reaction (PCR) primers and a fluorescent probe for use in the Perkin Elmer 7700 automated real time PCR detection system (TaqMan) were designed from a C. michiganensis subsp. sepedonicus-specific genomic DNA fragment for development of a BIO-PCR assay for C. michiganensis subsp. sepedonicus in potato tubers. Results of screening the primers with strains of C. michiganensis subsp. sepedonicus and other bacteria showed the primers to be specific. A total of 30 naturally infected ring rot suspect tubers were sampled by the core extract, shaker incubation procedure and assayed by (i) plating aliquots onto agar media, (ii) classical PCR, and (iii) BIO-PCR. In all, 4 tubers were positive by agar plating and pathogenicity tests, 8 by classical TaqMan PCR, and 26 by TaqMan BIO-PCR. We conclude that BIO-PCR combined with the TaqMan automated closed detection system is a rapid, reliable method of assaying large numbers of potato tuber extracts for C. michiganensis subsp. sepedonicus. Furthermore, for a large central laboratory running large numbers of PCR assays, the high-throughput TaqMan system can reduce costs per sample over the more labor-intensive classical PCR.

Influence of pH and NaHCO<sub>3</sub> on Effectiveness of Imazalil to Inhibit Germination of <i>Penicillium digitatum</i> and to Control Postharvest Green Mold on Citrus Fruit
Tập 89 Số 6 - Trang 640-648 - 2005
J. L. Smilanick, Monir Mansour, Dennis A. Margosan, F. Mlikota Gabler, W. R. Goodwine

In vitro, spores of Penicillium digitatum germinated without inhibition between pH 4 and 7, but were inhibited at higher pH. Estimated concentrations of imazalil (IMZ) in potato-dextrose broth-Tris that caused 50% reduction in the germination of spores (ED50) of an IMZ-sensitive isolate M6R at pH 4, 5, 6, and 7 were 0.16, 0.11, 0.015, and 0.006 μg/ml, respectively. ED50 IMZ concentrations of an IMZ-resistant isolate D201 at pH 4, 5, 6, and 7 were 5.9, 1.4, 0.26, and 0.07 μg/ml, respectively. The natural pH within 2-mm-deep wounds on lemon was 5.6 to 5.1 and decreased with fruit age. IMZ effectiveness to control green mold and its residues increased with pH. The pH in wounds on lemon fruit 24 h after immersion in 1, 2, or 3% NaHCO3 increased from pH 5.3 to 6.0, 6.3, and 6.7, respectively. NaHCO3 dramatically improved IMZ performance. Green mold incidence among lemon fruit inoculated with M6R and treated 24 h later with IMZ at 10 μg/ml, 1% NaHCO3, or their combination was 92, 55, and 22%, respectively. Green mold among lemon fruit inoculated with D201 and treated 24 h later with water, IMZ at 500 μg/ml, 3% NaHCO3, or their combination was 96.3, 63.0, 44.4, and 6.5%, respectively. NaHCO3 did not influence IMZ fruit residue levels.