Journal of Separation Science

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
Xác định đồng thời các axit phenolic và flavonoid trong gạo bằng cách chiết pha rắn và RP‐HPLC với phát hiện bằng dải photodiode Dịch bởi AI
Journal of Separation Science - Tập 35 Số 13 - Trang 1603-1611 - 2012
Maria Irakli, Victoria Samanidou, Costas G. Βiliaderis, Ioannis N. Papadoyannis

Phương pháp phân tích dựa trên quy trình chiết pha rắn tối ưu và tiếp theo là tách bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) với phát hiện bằng dải photodiode đã được phát triển và xác nhận để xác định đồng thời các axit phenolic (acid gallic, acid protocatechuic, acid 4-hydroxy-benzoic, acid vanillic, acid caffeic, acid syringic, acid p-coumaric, acid ferulic, acid sinapic, và acid cinnamic), flavanol (catechin và epicatechin), flavonol (myricetin, quercetin, kaempferol, quercetin-3-O-glucoside, hyperoside, và rutin), flavone (luteolin và apigenin) và flavanone (naringenin và hesperidin) trong bột gạo (Oryza sativa L.). Quá trình tách sắc ký được thực hiện trên cột PerfectSil Target ODS‐3 (250 mm × 4.6 mm, 3 μm) ở nhiệt độ 25°C sử dụng pha động, bao gồm 0.5% (v/v) acid acetic trong nước, methanol, và acetonitrile với tốc độ dòng chảy 1 mL min−1, dưới điều kiện elution gradient. Việc áp dụng các điều kiện chiết xuất tối ưu, được triển khai trên cả cartridge Lichrolut C18Oasis HLB, đã dẫn đến việc chiết xuất các axit phenolic và flavonoid từ bột gạo với tỷ lệ phục hồi trung bình từ 84.3–113.0%. Phương pháp phát triển đã được xác nhận về mặt tính tuyến tính, độ chính xác, độ chính xác, sự ổn định, và độ nhạy. Độ lặp lại (n = 5) và độ chính xác giữa các ngày (n = 4) cho thấy độ lệch chuẩn tương đối (RSD) <13%. Phương pháp tối ưu đã được áp dụng thành công để phân tích các axit phenolic và flavonoid trong mẫu gạo có màu (gạo đỏ và đen) và gạo không có màu (gạo nâu).

Điều kiện tối ưu cho việc chiết xuất L‐theanine từ trà xanh bằng nước Dịch bởi AI
Journal of Separation Science - Tập 34 Số 18 - Trang 2468-2474 - 2011
Quan V. Vuong, Costas E. Stathopoulos, John B. Golding, Minh H. Nguyen, Paul D. Roach
Tóm tắt

Theanine là một loại axit amin không chứa protein đặc biệt được tìm thấy trong trà (Camellia sinensis). Nó góp phần tạo nên vị umami dễ chịu của trà và có liên quan đến nhiều tác dụng có lợi cho con người. Sự quan tâm ngày càng tăng đối với theanine như một thành phần quan trọng của trà, như một nguyên liệu cho thực phẩm chức năng mới và như một chất bổ sung dinh dưỡng. Do đó, cần thiết phải xác định các điều kiện tối ưu cho việc chiết xuất theanine từ trà để có thể định lượng chính xác theanine trong trà và như một bước đầu tiên hiệu quả cho việc tinh chế nó. Nghiên cứu này đã xem xét ảnh hưởng của bốn điều kiện chiết xuất khác nhau lên năng suất của theanine từ trà xanh bằng nước và ứng dụng phương pháp bề mặt phản ứng để tối ưu hóa thêm các điều kiện chiết xuất. Kết quả cho thấy nhiệt độ, thời gian chiết xuất, tỷ lệ nước và trà cũng như kích thước hạt trà có ảnh hưởng đáng kể đến năng suất chiết xuất theanine. Các điều kiện tối ưu cho việc chiết xuất theanine từ trà xanh bằng nước được xác định là chiết xuất ở 80°C trong 30 phút với tỷ lệ nước và trà là 20:1 mL/g và kích thước hạt trà là 0.5–1 mm.

Tối ưu hóa điều kiện chiết xuất catechin từ trà xanh bằng nước nóng Dịch bởi AI
Journal of Separation Science - Tập 34 Số 21 - Trang 3099-3106 - 2011
Quan V. Vuong, John B. Golding, Costas E. Stathopoulos, Minh H. Nguyen, Paul D. Roach
Tóm tắt

Sáu yếu tố khác nhau liên quan đến quá trình chiết xuất catechin từ trà xanh bằng nước đã được xem xét để đánh giá tác động của chúng đến sản lượng catechin và hiệu quả sử dụng nước. Tổ hợp nhiệt độ và thời gian tốt nhất cho việc chiết xuất catechin là ở 80°C trong 30 phút. Sản lượng catechin cũng tối ưu với kích thước hạt trà là 1 mm, độ pH của dung dịch pha chế <6 và tỷ lệ trà-so nước là 50:1 (mL/g). Về hiệu quả sử dụng nước trong một lần chiết xuất, tỷ lệ nước-so trà là 20:1 (mL/g) cho kết quả tốt nhất; lượng nước sử dụng giảm đi 2,5 lần cho mỗi gram trà xanh. Tại tỷ lệ nước-so trà 20:1 mL/g, sản lượng catechin cao nhất trên mỗi gram trà xanh đạt được bằng cách chiết xuất cùng một mẫu trà xanh hai lần. Tuy nhiên, để sử dụng nước hiệu quả nhất, phương pháp chiết xuất tốt nhất được tìm thấy là một lần ở tỷ lệ nước-so trà 12:1 (mL/g) và một lần ở tỷ lệ nước-so trà 8:1 (mL/g). Do đó, tất cả sáu yếu tố được nghiên cứu đều có tác động đến sản lượng catechin được chiết xuất từ trà xanh bằng nước và hai trong số đó có tác động đến hiệu quả sử dụng nước.

Chiết xuất và tách isolat catechin từ trà Dịch bởi AI
Journal of Separation Science - Tập 33 Số 21 - Trang 3415-3428 - 2010
Quan V. Vuong, John B. Golding, Minh H. Nguyen, Paul D. Roach
Tóm tắt

Trà là nguồn chính của catechin, một hợp chất đã trở nên nổi tiếng nhờ khả năng chống oxy hóa. Nhiều nghiên cứu trên người, động vật và in vitro đã liên kết catechin trong trà với việc ngăn ngừa một số loại ung thư, giảm nguy cơ béo phì, tiểu đường và bệnh tim mạch, cũng như cải thiện hệ thống miễn dịch. Các catechin trong trà được sử dụng rộng rãi trong nhiều sản phẩm dược phẩm, thực phẩm chức năng và mỹ phẩm để nâng cao tuổi thọ sản phẩm hoặc cải thiện sức khỏe con người. Do đó, nhu cầu về catechin đã tăng lên đáng kể. Catechin đã được chiết xuất và tách riêng từ lá trà bằng nhiều phương pháp qua một số bước khác nhau bao gồm: xử lý lá trà, chiết xuất catechin từ trà vào dung môi, tách isolat catechin khỏi các thành phần khác đã được chiết xuất, và sấy khô các chế phẩm để thu được chiết xuất catechin dưới dạng bột. Bài báo này tóm tắt các đặc điểm vật lý và hóa học của catechin trà và xem xét các bước chiết xuất trong các phương pháp chiết xuất khác nhau, như một cơ sở để cải thiện và phát triển thêm quy trình chiết xuất và tách isolat catechin trà.

#catechin #trà #chiết xuất #tách isolat #sức khỏe
Multi‐residue method for the analysis of pharmaceutical compounds in sewage sludge, compost and sediments by sonication‐assisted extraction and LC determination
Journal of Separation Science - Tập 33 Số 12 - Trang 1760-1766 - 2010
Julia Martı́n, Juan Luís Santos, Irene Aparicio, Esteban Alonso
Abstract

A method for the simultaneous determination of 16 pharmaceutical compounds in three types of sewage sludge (primary, secondary and anaerobically digested dehydrated sludge), compost and sediment samples is described. Pharmaceutical compounds evaluated were nonsteroidal anti‐inflammatory drugs (acetaminophen, diclofenac, ibuprofen, ketoprofen, naproxen and salicylic acid), antibiotics (sulfamethoxazole and trimethoprim), an anti‐epileptic drug (carbamazepine), a β‐blocker (propranolol), a nervous stimulant (caffeine), estrogens (17α‐ethinylestradiol, 17β‐estradiol, estriol and estrone) and lipid regulators (clofibric acid, metabolite of clofibrate and gemfibrozil). The method is based on the ultrasonic‐assisted extraction, clean‐up by SPE and analytical determination by HPLC with diode array and fluorescence detectors. The best extraction recoveries were achieved in a three‐step extraction procedure with methanol and acetone as extraction solvents. Extraction recoveries of several pharmaceutical compounds as caffeine were highly dependent on the type of sample evaluated. The applicability of the method was tested by analyzing primary, secondary and anaerobically digested dehydrated sludge, compost and sediment samples from Seville (Southern Spain). Ten of the sixteen pharmaceutical compounds were detected in sludge samples and five in compost and sediment samples. The highest concentration levels were recorded for ibuprofen in sewage samples, whereas salicylic acid and 17α‐ethinylestradiol were detected in all of the samples analyzed.

Synthesis and application of novel phenylboronate affinity materials based on organic polymer particles for selective trapping of glycoproteins
Journal of Separation Science - Tập 32 Số 10 - Trang 1673-1685 - 2009
Beatrix Preinerstorfer, Michael Lämmerhofer, Wolfgang Lindner
Abstract

We report on synthesis concepts for the fabrication of various novel phenylboronate affinity materials based on polymethacrylate epoxy beads (Fractogel® EMD Epoxy (M) 40–90 μm) and the testing of these functionalized polymer particles for selective trapping of a glycoprotein from a standard mixture containing a glycosylated and a nonglycosylated protein. Two inherently different approaches for the functionalization of the bare beads with boronate groups have been elucidated. In the first, the epoxy residues of the polymer particles were converted into reactive thiol groups which were subsequently used as anchor moieties for the immobilization of 4‐vinylphenylboronic acid by radical addition or radical polymerization reaction. Three different ways for the generation of sulfhydryl groups have been examined leading to materials with distinct linker chemistries. In the second and more straightforward approach, the epoxy groups were reacted with 4‐mercaptophenylboronic acid. The novel materials were thoroughly characterized by (i) quantitation of the sulfur content by elemental analysis, (ii) reactive sulfhydryls were determined in a photospectrometric assay, (iii) boron content was measured by inductively coupled plasma‐atomic emission spectrometry, and (iv) the amount of reactive boronate groups was evaluated in a fast binding assay employing adenosine as test compound. A maximum concentration of 1.2 mmol boronate groups per gram dry beads could be achieved by the presented synthesis routes. Employing the novel phenylboronate affinity materials in capture and release experiments in the batch mode, a standard glycoprotein, viz. transferrin (Tf) from human serum was separated from a nonglycosylated protein, BSA. A commercial boronate affinity material based on 3‐aminophenylboronic acid modified agarose gel was employed as reference material and was found to perform significantly worse compared to the herein presented novel polymethacrylate particles.

So sánh sự phân tách enantiomer của một số dẫn xuất benzodiazepine và phenothiazine trên các pha tĩnh chiral dựa trên β‐cyclodextrin và kháng sinh đại phân tử Dịch bởi AI
Journal of Separation Science - Tập 26 Số 8 - Trang 661-668 - 2003
Eva Tesařová, Zuzana Bosáková
Tóm tắt

Sự phân tách enantiomer của một số dẫn xuất phenothiazine và benzodiazepine đã được nghiên cứu trên sáu pha tĩnh chiral (CSPs) khác nhau trong HPLC. Các CSP được chọn, phụ thuộc vào cấu trúc của các hợp chất được phân tách, có thể dựa trên các tác nhân chiral β‐cyclodextrin - β‐cyclodextrin không thay thế và β‐cyclodextrin ether hydroxypropyl, hoặc dựa trên kháng sinh đại phân tử - vancomycin, teicoplanin, aglycone teicoplanin và ristocetin A. Các phép đo được thực hiện trong chế độ phân tách pha đảo. Ảnh hưởng của thành phần pha di động lên khả năng giữ lại và phân tách enantiomer đã được nghiên cứu. Benzodiazepine có thể được phân tách enantiomer gần như với tất cả các pha tĩnh chiral được sử dụng, ngoại trừ CSP liên kết với vancomycin. Sự kết hợp đỉnh của oxazepam và lorazepam đã được quan sát nếu sự phân tách được thực hiện ở nhiệt độ phòng thí nghiệm. Nhiệt độ giảm cần thiết trong một số trường hợp để tránh sự racemization trên cột. Hệ thống phân tách gồm CSP liên kết với teicoplanin và các pha di động đệm-metanol hoặc metanol tinh khiết đã được chứng minh là phù hợp ngay cả cho các mục đích chuẩn bị do giá trị độ phân giải cao của các enantiomer. Sự phân tách enantiomer của các dẫn xuất phenothiazine khó đạt được hơn nhưng vẫn thành công, ít nhất một phần, với cả hai loại CSP được sử dụng (trừ levomepromazine).

Cách ly và tinh chế ba glycosid flavonoid từ Taraxacum mongolicum bằng sắc ký đảo ngược tốc độ cao Dịch bởi AI
Journal of Separation Science - Tập 31 Số 4 - Trang 683-688 - 2008
Shuyun Shi, Yuping Zhang, Yu Zhao, Huang Ke-long
Tóm tắt

Phương pháp sắc ký đảo ngược tốc độ cao (HSCCC) đã được áp dụng để tinh chế ba glycosid flavonoid từ phần trên mặt đất của Taraxacum mongolicum, một loại thuốc truyền thống của Trung Quốc. Các phân tích tiếp theo bằng UV, MS và NMR đã dẫn đến việc xác định ba glycosid flavonoid bao gồm hai hợp chất mới là isoetin‐7‐O‐β‐D‐glucopyranosyl‐2′‐O‐α‐L‐arabinopyranoside và isoetin‐7‐O‐β‐D‐glucopyranosyl‐2′‐O‐α‐D‐glucopyranoside, cùng với một hợp chất đã biết, isoetin‐7‐O‐β‐D‐glucopyranosyl‐2′‐O‐α‐D‐xyloypyranoside, lần đầu tiên được tách chiết từ T. mongolicum. Hệ thống dung môi hai pha bao gồm ethyl acetate/n‐butanol/nước (2:1:3, v/v/v) đã được thực hiện trong HSCCC. Kết quả, tổng cộng có 25,7 mg isoetin‐7‐O‐β‐D‐glucopyranosyl‐2′‐O‐α‐L‐arabinopyranoside, 19,1 mg isoetin‐7‐O‐β‐D‐glucopyranosyl‐2′‐O‐α‐D‐glucopyranoside, và 10,6 mg isoetin‐7‐O‐β‐D‐glucopyranosyl‐2′‐O‐α‐D‐xyloypyranoside đã được thu được với độ tinh khiết lần lượt là 98,7%, 98,3% và 99,1%, theo phương pháp HPLC từ 500 mg chiết xuất giàu sau khi làm sạch bằng nhựa polyamide.

Phân tách và xác định đồng thời các limonoid từ trái cây họ cam quýt bằng phổ khối lượng gây ra bởi va chạm-điện tích Dịch bởi AI
Journal of Separation Science - Tập 34 Số 1 - Trang 2-10 - 2011
G.K. Jayaprakasha, Deepak V. Dandekar, Shane E. Tichy, Bhimanagouda S. Patil
Tóm tắt

Các limonoid được coi là những tác nhân tiềm năng trong việc phòng ngừa ung thư và được phân bố rộng rãi trong chi Citrus dưới dạng aglycone và glucoside. Trong nghiên cứu hiện tại, phương pháp HPLC đảo ngược kết hợp với phổ khối lượng CID đã được phát triển để phân tách và xác định đồng thời các aglycone và glucoside từ limonoid có trong trái cây họ cam quýt. Năm aglycone như limonin, deacetyl nomilin, ichangin, axit isolimonoic và nomilin đã được xác định qua phổ khối lượng ion dương CID MS/MS, trong khi năm glucoside, bao gồm: limonin glucoside, isoobacunoic acid glucoside, obacunone glucoside, deacetyl nomilinic acid glucoside và nomilinic acid glucoside được phân tích qua phổ khối lượng ion âm CID. Phương pháp đã phát triển được áp dụng thành công cho các mẫu trái cây họ cam quýt phức tạp để phân tách và xác định các aglycone và glucoside. Hạt cam quýt được chiết xuất bằng methanol và được tinh chế một phần, sau đó phân tích bằng phổ khối lượng LC-CID. Việc phân tách được thực hiện bằng cột C-18; tám loại limonoid đã được xác định bằng cách so sánh thời gian lưu và sự phân mảnh phổ khối lượng. Theo như chúng tôi biết, đây là báo cáo đầu tiên về việc xác định các limonoid trong trái cây họ cam quýt bằng kỹ thuật CID.

Phân tích dư lượng thuốc trừ sâu trong mẫu nước môi trường bằng phương pháp chiết tách pha rắn phân tán sử dụng ống nanotube carbon đa thành Dịch bởi AI
Journal of Separation Science - Tập 36 Số 3 - Trang 556-563 - 2013
Miguel Ángel González‐Curbelo, Antonio V. Herrera‐Herrera, Javier Hernández‐Borges, Miguel Ángel Rodríguez‐Delgado

Trong bài viết này, một phương pháp chiết tách pha rắn phân tán dựa trên việc sử dụng ống nanotube carbon đa thành đã được phát triển để xác định 15 loại dư lượng thuốc trừ sâu phospho hữu cơ, bao gồm một số chất chuyển hóa của chúng (disulfoton sulfoxide, ethoprophos, cadusafos, dimethoate, terbufos, disulfoton, chlorpyrifos-methyl, malaoxon, fenitrothion, pirimiphos-methyl, malathion, chlorpyrifos, terbufos sulfone, disulfoton sulfone, và fensulfothion) trong mẫu nước môi trường thực tế (nước chảy, nước khoáng và nước máy) bằng kỹ thuật GC với phát hiện ni tơ phospho. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu suất làm giàu như thể tích mẫu, số lượng ống nanotube carbon đa thành và thể tích dung dịch eluent đã được nghiên cứu. Phương pháp tối ưu đã được xác minh dựa trên việc hiệu chuẩn tương thích ma trận, độ thu hồi, độ chính xác và độ tin cậy cho ba mẫu phân tích. Trong trường hợp cuối cùng, bài kiểm tra Student’s t phát triển đã chứng minh rằng không có sự khác biệt đáng kể giữa nồng độ thực tế và nồng độ được bổ sung. Điều kiện chiết tách pha rắn phân tán tối ưu (chiết 200 mL nước, pH 6.0, với 130 mg ống nanotube carbon đa thành, eluent bằng 25 mL dichloromethane cho nước chảy và nước máy và 30 mL cho nước khoáng) cho phép chiết xuất định lượng các chất phân tích ở mức thấp hơn giới hạn tối đa dư lượng được quy định bởi Liên minh Châu Âu, với LOD giao động từ 1.16 đến 93.6 ng/L. Giá trị thu hồi tuyệt đối đạt được nằm trong khoảng 67–107% (giá trị RSD <10.1%).

#dư lượng thuốc trừ sâu #ống nanotube carbon đa thành #chiết tách pha rắn phân tán #xác định thuốc trừ sâu #môi trường nước
Tổng số: 137   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10