Tác động của bảo hiểm y tế đối với chăm sóc phòng ngừa và hành vi sức khỏe: Bằng chứng từ hai năm đầu tiên của các mở rộng Medicaid theo ACA Dịch bởi AI Tập 36 Số 2 - Trang 390-417 - 2017
Kosali Simon, Aparna Soni, John Cawley
Tóm tắtDân số Hoa Kỳ nhận được mức độ chăm sóc phòng ngừa không tối ưu và có tỷ lệ cao về các hành vi sức khỏe có nguy cơ. Một trong những mục tiêu của Đạo luật Chăm sóc Hợp túi (ACA) là tăng cường chăm sóc phòng ngừa và cải thiện hành vi sức khỏe bằng cách mở rộng tiếp cận bảo hiểm y tế. Bài viết này ước tính cách mà các mở rộng cấp bang về Medicaid được thực hiện theo ACA vào năm 2014 đã ảnh hưởng đến các kết quả này. Sử dụng dữ liệu từ Hệ thống Giám sát Y tế Hành vi, và một mô hình chênh lệch trên chênh lệch so sánh các bang đã và không đã mở rộng Medicaid, chúng tôi nghiên cứu tác động của các mở rộng này đối với chăm sóc phòng ngừa (ví dụ: thăm khám nha khoa, tiêm chủng, chụp vú, sàng lọc ung thư), các hành vi sức khỏe có nguy cơ (ví dụ: hút thuốc, uống rượu, thiếu tập thể dục, béo phì), và sức khỏe tự đánh giá. Chúng tôi phát hiện rằng các mở rộng này đã tăng cường bảo hiểm và tiếp cận chăm sóc trong số các đối tượng có thu nhập thấp không có con cái. Các mở rộng này cũng làm tăng việc sử dụng một số hình thức chăm sóc phòng ngừa nhất định, nhưng không có bằng chứng cho thấy chúng đã làm tăng nguy cơ đạo đức ex ante (tức là, không có bằng chứng cho thấy các hành vi sức khỏe có nguy cơ gia tăng phản ứng với việc có bảo hiểm y tế). Các mở rộng Medicaid cũng cải thiện một cách khiêm tốn sức khỏe tự đánh giá..
The Effects of Paid Family Leave in California on Labor Market Outcomes Tập 35 Số 2 - Trang 333-356 - 2016
Charles L. Baum, Christopher J. Ruhm
AbstractUsing data from the 1997 cohort of the National Longitudinal Survey of Youth (NLSY‐97), we examine the effects of California's paid family leave program (CA‐PFL) on mothers’ and fathers’ use of leave during the period surrounding child birth, and on the timing of mothers’ return to work, the probability of eventually returning to prechildbirth jobs, and subsequent labor market outcomes. We estimate multivariate difference‐in‐differences regression models that compare changes in the outcomes for new California parents before and after the enactment of CA‐PFL to those for corresponding parents in control states. Our results suggest that CA‐PFL raised leave use by almost five weeks for the average covered mother and two to three days for the corresponding father. Maternal leave‐taking appears to increase in the quarter before the birth and to extend through the two quarters after it. Paternal leave‐taking rises fairly quickly after the birth and is short‐lasting. Rights to paid leave are also associated with higher work and employment probabilities for mothers nine to 12 months after birth, probably because they increase job continuity among those with relatively weak labor force attachments. We also find positive effects of California's program on hours and weeks of work during their child's second year of life.
Hỗ trợ Quyết định, Không Giải Quyết Tranh Chấp: Tạo Ra Những Nhận Thức Thông Qua Quyết Định Môi Trường Được Cấu Trúc Dịch bởi AI Tập 20 Số 3 - Trang 415-432 - 2001
Robin Gregory, Tim McDaniels, Daryl Fields
Tóm tắtSự tham gia của công chúng trong các quyết định môi trường đã trở thành một điều phổ biến. Một mô hình được ưa chuộng để nhận được ý kiến công chúng là sử dụng các công cụ giải quyết tranh chấp nhằm tìm kiếm sự đồng thuận giữa các thành viên của một nhóm các bên liên quan đa dạng. Các tác giả tin rằng sự tập trung vào giải quyết tranh chấp và xây dựng đồng thuận có thể tạo ra những trở ngại cho việc tạo ra những nhận thức cho các nhà ra quyết định và dẫn đến việc áp dụng các lựa chọn chính sách kém. Thay vào đó, họ ủng hộ một phương pháp tiếp cận khác đối với sự tham gia của các bên liên quan, được đặc trưng bởi việc “hỗ trợ quyết định” thông qua một quy trình có cấu trúc dựa trên các kỹ thuật đa thuộc tính mang tính xây dựng và tư duy tập trung vào giá trị. Trong bài báo này, một số khó khăn chính do cách tiếp cận giải quyết tranh chấp gây ra được nêu bật, các nguyên tắc của một quy trình hỗ trợ quyết định được xem xét, và phương pháp tiếp cận thay thế này được minh họa qua việc mô tả một buổi tư vấn với các bên liên quan liên quan đến lập kế hoạch sử dụng nước cho một nhà máy thủy điện trên sông Alouette ở British Columbia, Canada. © 2001 bởi Hiệp hội Phân tích Chính sách Công và Quản lý.
#Tham gia của công chúng #Quyết định môi trường #Giải quyết tranh chấp #Hỗ trợ quyết định #Chính sách công #Quy hoạch sử dụng nước
Ảnh hưởng của giáo dục kiêng khem đối với hoạt động tình dục của thanh thiếu niên, nguy cơ mang thai và nguy cơ mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục Dịch bởi AI Tập 27 Số 2 - Trang 255-276 - 2008
Christopher Trenholm, Barbara Devaney, Kenneth Fortson, Melissa A. Clark, Lisa Quay, Justin Wheeler
Tóm tắtBài báo này xem xét ảnh hưởng của bốn chương trình giáo dục kiêng khem chỉ dành cho thanh thiếu niên đối với hoạt động tình dục và nguy cơ mang thai cùng các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs). Dựa trên một thiết kế thí nghiệm, phân tích tác động sử dụng dữ liệu khảo sát thu thập được vào năm 2005 và đầu năm 2006 từ hơn 2.000 thanh thiếu niên đã được phân ngẫu nhiên vào hai nhóm: một nhóm chương trình đủ điều kiện tham gia một trong bốn chương trình hoặc một nhóm đối chứng không tham gia. Các phát hiện cho thấy không có tác động đáng kể đến hoạt động tình dục của thanh thiếu niên, không có sự khác biệt về tỷ lệ quan hệ tình dục không an toàn, và một số tác động đến kiến thức về STDs cũng như hiệu quả cảm nhận của bao cao su và thuốc tránh thai.© 2008 bởi Hiệp hội Phân tích và Quản lý Chính sách Công.
#giáo dục kiêng khem #thanh thiếu niên #hoạt động tình dục #nguy cơ mang thai #bệnh lây truyền qua đường tình dục
Các yếu tố thể chế ảnh hưởng đến kết quả sinh học trong quản lý rừng Dịch bởi AI Tập 28 Số 1 - Trang 122-146 - 2009
Eric A. Coleman
Tóm tắtMặc dù có sự quan tâm lớn đến tác động của các chính sách đa dạng ảnh hưởng đến các kết quả sinh lý học trong rừng, nhưng việc thu thập một mẫu đáng kể qua thời gian về các khu rừng dưới các cấu trúc thể chế khác nhau là điều khó khăn. Bài viết này phân tích dữ liệu từ 46 khu rừng tọa lạc tại sáu quốc gia qua thời gian. Tại các khu rừng áp dụng chính sách bảo tồn, việc theo dõi và xử phạt tích cực bởi các cộng đồng địa phương có liên quan đến điều kiện rừng tích cực. Những khu rừng cho phép nhóm người sử dụng khai thác, có thể là điều ngược lại với trực giác, cũng cho thấy có mối liên hệ với điều kiện rừng tích cực. Tuy nhiên, điều kiện tại các khu rừng do cộng đồng quản lý không khác biệt về mặt thống kê so với các khu rừng do chính phủ hoặc tư nhân quản lý. Điều này ngụ ý rằng các cộng đồng địa phương có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc đạt được các điều kiện rừng tích cực nhưng trách nhiệm quản lý đầy đủ không cần phải được trao hoàn toàn để đạt được những kết quả này. © 2009 bởi Hiệp hội Phân tích và Quản lý Chính sách Công.