Journal of Applied Econometrics

  1099-1255

  0883-7252

  Anh Quốc

Cơ quản chủ quản:  WILEY , John Wiley and Sons Ltd

Lĩnh vực:
Social Sciences (miscellaneous)Economics and Econometrics

Các bài báo tiêu biểu

Bounds testing approaches to the analysis of level relationships
Tập 16 Số 3 - Trang 289-326 - 2001
M. Hashem Pesaran, Yongcheol Shin, Richard J. Smith
Abstract

This paper develops a new approach to the problem of testing the existence of a level relationship between a dependent variable and a set of regressors, when it is not known with certainty whether the underlying regressors are trend‐ or first‐difference stationary. The proposed tests are based on standardF‐ andt‐statistics used to test the significance of the lagged levels of the variables in a univariate equilibrium correction mechanism. The asymptotic distributions of these statistics are non‐standard under the null hypothesis that there exists no level relationship, irrespective of whether the regressors areI(0) orI(1). Two sets of asymptotic critical values are provided: one when all regressors are purelyI(1) and the other if they are all purelyI(0). These two sets of critical values provide a band covering all possible classifications of the regressors into purelyI(0), purelyI(1) or mutually cointegrated. Accordingly, various bounds testing procedures are proposed. It is shown that the proposed tests are consistent, and their asymptotic distribution under the null and suitably defined local alternatives are derived. The empirical relevance of the bounds procedures is demonstrated by a re‐examination of the earnings equation included in the UK Treasury macroeconometric model. Copyright © 2001 John Wiley & Sons, Ltd.

A simple panel unit root test in the presence of cross‐section dependence
Tập 22 Số 2 - Trang 265-312 - 2007
M. Hashem Pesaran
Abstract

A number of panel unit root tests that allow for cross‐section dependence have been proposed in the literature that use orthogonalization type procedures to asymptotically eliminate the cross‐dependence of the series before standard panel unit root tests are applied to the transformed series. In this paper we propose a simple alternative where the standard augmented Dickey–Fuller (ADF) regressions are augmented with the cross‐section averages of lagged levels and first‐differences of the individual series. New asymptotic results are obtained both for the individual cross‐sectionally augmented ADF (CADF) statistics and for their simple averages. It is shown that the individual CADF statistics are asymptotically similar and do not depend on the factor loadings. The limit distribution of the average CADF statistic is shown to exist and its critical values are tabulated. Small sample properties of the proposed test are investigated by Monte Carlo experiments. The proposed test is applied to a panel of 17 OECD real exchange rate series as well as to log real earnings of households in the PSID data. Copyright © 2007 John Wiley & Sons, Ltd.

Computation and analysis of multiple structural change models
Tập 18 Số 1 - Trang 1-22 - 2003
Jushan Bai, Pierre Perrón
Abstract

In a recent paper, Bai and Perron (1998) considered theoretical issues related to the limiting distribution of estimators and test statistics in the linear model with multiple structural changes. In this companion paper, we consider practical issues for the empirical applications of the procedures. We first address the problem of estimation of the break dates and present an efficient algorithm to obtain global minimizers of the sum of squared residuals. This algorithm is based on the principle of dynamic programming and requires at most least‐squares operations of order O(T2) for any number of breaks. Our method can be applied to both pure and partial structural change models. Second, we consider the problem of forming confidence intervals for the break dates under various hypotheses about the structure of the data and the errors across segments. Third, we address the issue of testing for structural changes under very general conditions on the data and the errors. Fourth, we address the issue of estimating the number of breaks. Finally, a few empirical applications are presented to illustrate the usefulness of the procedures. All methods discussed are implemented in a GAUSS program. Copyright © 2002 John Wiley & Sons, Ltd.

Multivariate GARCH models: a survey
Tập 21 Số 1 - Trang 79-109 - 2006
Luc Bauwens, Sébastien Laurent, Jeroen V.K. Rombouts
Abstract

This paper surveys the most important developments in multivariate ARCH‐type modelling. It reviews the model specifications and inference methods, and identifies likely directions of future research. Copyright © 2006 John Wiley & Sons, Ltd.

Simple solutions to the initial conditions problem in dynamic, nonlinear panel data models with unobserved heterogeneity
Tập 20 Số 1 - Trang 39-54 - 2005
Jeffrey M. Wooldridge
Abstract

I study a simple, widely applicable approach to handling the initial conditions problem in dynamic, nonlinear unobserved effects models. Rather than attempting to obtain the joint distribution of all outcomes of the endogenous variables, I propose finding the distribution conditional on the initial value (and the observed history of strictly exogenous explanatory variables). The approach is flexible, and results in simple estimation strategies for at least three leading dynamic, nonlinear models: probit, Tobit and Poisson regression. I treat the general problem of estimating average partial effects, and show that simple estimators exist for important special cases. Copyright © 2005 John Wiley & Sons, Ltd.

So sánh dự báo của các mô hình biến động: Liệu có mô hình nào vượt trội hơn GARCH(1,1)? Dịch bởi AI
Tập 20 Số 7 - Trang 873-889 - 2005
Peter Reinhard Hansen, Asger Lunde
Tóm tắt

Chúng tôi so sánh 330 mô hình loại ARCH về khả năng mô tả phương sai có điều kiện. Các mô hình được so sánh ngoài mẫu sử dụng dữ liệu tỷ giá hối đoái DM–$ và dữ liệu lợi nhuận của IBM, trong đó dữ liệu lợi nhuận dựa trên một tập dữ liệu mới về phương sai thực tế. Chúng tôi không tìm thấy bằng chứng nào cho thấy mô hình GARCH(1,1) bị vượt trội bởi các mô hình phức tạp hơn trong phân tích tỷ giá hối đoái, trong khi đó GARCH(1,1) rõ ràng là kém hơn so với các mô hình có thể tiếp nhận hiệu ứng đòn bẩy trong phân tích lợi nhuận của IBM. Các mô hình được so sánh bằng kiểm tra khả năng dự đoán tốt hơn (SPA) và kiểm tra thực tế cho việc xem xét dữ liệu (RC). Kết quả thực nghiệm của chúng tôi cho thấy RC thiếu sức mạnh đến mức không thể phân biệt được các mô hình 'tốt' và 'xấu' trong phân tích của chúng tôi. Bản quyền © 2005 John Wiley & Sons, Ltd.

THE ROLE OF INVENTORIES AND SPECULATIVE TRADING IN THE GLOBAL MARKET FOR CRUDE OIL
Tập 29 Số 3 - Trang 454-478 - 2014
Lutz Kilian, Daniel P. Murphy
SUMMARY

We develop a structural model of the global market for crude oil that for the first time explicitly allows for shocks to the speculative demand for oil as well as shocks to flow demand and flow supply. The speculative component of the real price of oil is identified with the help of data on oil inventories. Our estimates rule out explanations of the 2003–2008 oil price surge based on unexpectedly diminishing oil supplies and based on speculative trading. Instead, this surge was caused by unexpected increases in world oil consumption driven by the global business cycle. There is evidence, however, that speculative demand shifts played an important role during earlier oil price shock episodes including 1979, 1986 and 1990. Our analysis implies that additional regulation of oil markets would not have prevented the 2003–2008 oil price surge. We also show that, even after accounting for the role of inventories in smoothing oil consumption, our estimate of the short‐run price elasticity of oil demand is much higher than traditional estimates from dynamic models that do not account for for the endogeneity of the price of oil. Copyright © 2013 John Wiley & Sons, Ltd.

Indirect inference
Tập 8 Số S1 - Trang S85-S118 - 1993
Christian Gouriéroux, Alain Monfort, Éric Renault
MÔ HÌNH ĐIỂM TỰ HỒI QUÁT TỔNG QUÁT VỚI CÁC ỨNG DỤNG Dịch bởi AI
Tập 28 Số 5 - Trang 777-795 - 2013
Drew Creal, Siem Jan Koopman, André Lucas
Tóm Tắt

Chúng tôi đề xuất một lớp mô hình chuỗi thời gian theo hướng quan sát được gọi là mô hình điểm tự hồi quát tổng quát (GAS). Cơ chế để cập nhật các tham số theo thời gian là điểm được nhân tỷ lệ của hàm hợp lý tính theo thang điểm. Cách tiếp cận mới này cung cấp một khung công tác thống nhất và nhất quán cho việc giới thiệu các tham biến thay đổi theo thời gian trong một lớp mô hình phi tuyến rộng lớn. Mô hình GAS bao gồm các mô hình nổi tiếng khác như tự hồi điều kiện phương sai tổng quát, thời lượng tự hồi điều kiện, cường độ tự hồi điều kiện và mô hình đếm Poisson với trung bình thay đổi theo thời gian. Ngoài ra, cách tiếp cận của chúng tôi có thể dẫn đến các công thức mới của các mô hình hướng quan sát. Chúng tôi minh họa khung công tác của mình bằng cách giới thiệu các đặc điểm mô hình mới cho các hàm copula thay đổi theo thời gian và cho các quá trình điểm đa biến với các tham số thay đổi theo thời gian. Chúng tôi nghiên cứu chi tiết các mô hình và cung cấp bằng chứng mô phỏng và thực nghiệm. Bản quyền © 2012 John Wiley & Sons, Ltd.

#mô hình GAS #chuỗi thời gian #tham số thay đổi theo thời gian #hàm copula #quá trình điểm đa biến #phương sai tổng quát #mô hình phi tuyến.
Chúng ta có thể học được gì từ giá hợp đồng tương lai dầu thô? Dịch bởi AI
Tập 25 Số 4 - Trang 539-573 - 2010
Ron Alquist, Lutz Kilian
Tóm tắt

Mặc dù hợp đồng tương lai dầu được sử dụng rộng rãi như những dự đoán về giá dầu giao ngay, nhưng giá hợp đồng tương lai lại ít chính xác hơn trong phương diện sai số dự đoán bình phương trung bình so với các dự đoán không thay đổi. Kết quả này được thúc đẩy bởi sự biến động của giá hợp đồng tương lai so với giá giao ngay, được thể hiện qua chênh lệch giá dầu tương lai. Sự biến động này có thể được giải thích bằng lợi suất tiện nghi cận biên của các kho dự trữ dầu. Sử dụng mô hình tổng quát cân bằng nhiều kỳ hai quốc gia cho thị trường giao ngay và hợp đồng tương lai cho dầu thô, chúng tôi cho thấy rằng sự gia tăng sự không chắc chắn về những thiếu hụt nguồn cung dầu trong tương lai, dưới những giả định hợp lý, dẫn đến việc chênh lệch giá giảm. Sự không chắc chắn gia tăng cũng làm tăng nhu cầu dự phòng cho dầu, dẫn đến sự gia tăng ngay lập tức trong giá giao ngay thực tế. Do đó, giá trị âm của chênh lệch giá dầu tương lai có thể được coi là một chỉ số của sự dao động trong giá dầu thô do nhu cầu dự phòng tác động. Phân tích thực nghiệm của chỉ số này cung cấp bằng chứng về cách mà sự thay đổi trong sự không chắc chắn về nguồn cung dầu trong tương lai ảnh hưởng đến giá giao ngay thực tế của dầu thô. Bản quyền © 2010 John Wiley & Sons, Ltd.