
Eurosurveillance
SCOPUS (2001-2023)SCIE-ISI
1560-7917
1025-496X
Thụy Điển
Cơ quản chủ quản: European Centre for Disease Prevention and Control (ECDC) , EUR CENTRE DIS PREVENTION & CONTROL
Các bài báo tiêu biểu
Trong bối cảnh dịch bùng phát liên tục của coronavirus mới xuất hiện gần đây (2019-nCoV), các phòng thí nghiệm y tế công cộng đang gặp phải thách thức do chưa có được các mẫu virus cách ly, trong khi ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy dịch bệnh lan rộng hơn so với dự đoán ban đầu và sự lây lan quốc tế qua khách du lịch đang xảy ra.
Chúng tôi đặt mục tiêu phát triển và triển khai một phương pháp chẩn đoán mạnh mẽ để sử dụng trong môi trường phòng thí nghiệm y tế công cộng mà không cần có sẵn mẫu virus thực tế.
Chúng tôi trình bày một quy trình chẩn đoán được xác thực cho 2019-nCoV, với thiết kế dựa trên quan hệ gen gần gũi của 2019-nCoV với coronavirus SARS, tận dụng công nghệ axit nucleic tổng hợp.
Quy trình này phát hiện chính xác 2019-nCoV và phân biệt 2019-nCoV với SARS-CoV. Thông qua sự phối hợp giữa các phòng thí nghiệm học thuật và công lập, chúng tôi đã xác nhận tính độc quyền của kết quả thử nghiệm dựa trên 297 mẫu lâm sàng gốc có chứa đầy đủ phổ virus đường hô hấp ở người. Vật liệu kiểm soát được cung cấp thông qua European Virus Archive – Global (EVAg), một dự án cơ sở hạ tầng của Liên minh Châu Âu.
Nghiên cứu hiện tại chứng minh năng lực phản ứng mạnh mẽ đạt được thông qua sự phối hợp giữa các phòng thí nghiệm học thuật và công lập trong các mạng lưới nghiên cứu quốc gia và châu Âu.
Vào ngày 5 tháng 2 năm 2020, tại Yokohama, Nhật Bản, một tàu du lịch chở 3.711 người đã trải qua 2 tuần cách ly sau khi một hành khách cũ được phát hiện mắc COVID-19 sau khi rời tàu. Tính đến ngày 20 tháng 2, 634 người trên tàu đã có kết quả xét nghiệm dương tính với vi rút gây bệnh. Chúng tôi đã thực hiện mô hình thống kê để suy luận tỷ lệ nhiễm không triệu chứng đã điều chỉnh theo thời gian, cùng với thời gian diễn biến của các ca nhiễm. Tỷ lệ ước tính của các ca không triệu chứng là 17,9% (khoảng tin cậy 95% (CrI): 15,5–20,2%). Hầu hết các ca nhiễm xảy ra trước khi bắt đầu cách ly.
Chúng tôi trình bày một phân tích toàn cầu về sự lan rộng của các biến thể SARS-CoV-2 mới nổi gần đây và ước tính sự thay đổi trong số lượng sinh sản hiệu quả ở cấp độ quốc gia cụ thể sử dụng dữ liệu chuỗi gen từ GISAID. Gần như tất cả các quốc gia được khảo sát đều cho thấy sự thay thế nhanh chóng các dòng virus lưu hành trước đó bằng các biến thể đáng lo ngại được Tổ chức Y tế Thế giới chỉ định, với ước lượng mức tăng khả năng lây truyền là 29% (Khoảng tin cậy 95%: 24–33), 25% (Khoảng tin cậy 95%: 20–30), 38% (Khoảng tin cậy 95%: 29–48) và 97% (Khoảng tin cậy 95%: 76–117), tương ứng cho B.1.1.7, B.1.351, P.1 và B.1.617.2.
Hai dòng SARS-CoV-2 mới với đột biến N501Y trong miền liên kết thụ thể của protein gai đã lây lan nhanh chóng tại Vương Quốc Anh. Chúng tôi ước tính rằng dòng 501Y trước đó không có thiếu hụt axit amin Δ69/Δ70, lưu hành chủ yếu từ đầu tháng 9 đến giữa tháng 11, có tính lây truyền cao hơn 10% (6–13%) so với dòng 501N, và dòng 501Y có thiếu hụt axit amin Δ69/Δ70, lưu hành từ cuối tháng 9, có tính lây truyền cao hơn 75% (70–80%) so với dòng 501N.
Tệp tin nhị phân ES_Abstracts_Final_ECDC.txt khớp
Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA) là nguyên nhân chính gây ra các nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khỏe và cộng đồng trên toàn thế giới. Chỉ riêng trong môi trường chăm sóc sức khỏe, ước tính có hơn 150,000 bệnh nhân bị nhiễm MRSA mỗi năm trong Liên minh châu Âu (EU), dẫn đến chi phí bệnh viện bổ sung lên đến 380 triệu euro cho các hệ thống chăm sóc sức khỏe của EU. Dữ liệu giám sát trên toàn châu Âu về các nhiễm trùng máu cho thấy sự biến đổi đáng kể giữa các quốc gia thành viên EU về tỷ lệ S. aureus kháng methicillin, dao động từ dưới 1% tới hơn 50%. Trong năm năm qua, tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết do MRSA đã giảm đáng kể ở 10 quốc gia EU có tỷ lệ nhiễm MRSA cao hơn. Ngoài các nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khỏe, các chủng MRSA mới đã phát sinh gần đây như là các tác nhân gây bệnh ở người liên quan đến cộng đồng và gia súc ở hầu hết các quốc gia thành viên EU. Do đó, việc phòng ngừa và kiểm soát MRSA đã được xác định là những ưu tiên y tế công cộng ở EU. Trong bài tổng quan này, chúng tôi mô tả gánh nặng hiện tại của các nhiễm trùng MRSA trong môi trường chăm sóc sức khỏe và cộng đồng trên khắp châu Âu và phác thảo những mối đe dọa chính do những thay đổi gần đây trong dịch tễ học của MRSA. Qua đó, chúng tôi mong muốn xác định những nhu cầu chưa được đáp ứng trong việc giám sát, phòng ngừa và kiểm soát MRSA ở châu Âu.
Cơ chế kháng colistin trung gian qua plasmid đã được xác định trên toàn cầu trong những năm gần đây. Một phác đồ phản ứng đa mồi khuếch đại (PCR đa mồi) để phát hiện tất cả các gen kháng colistin có thể chuyển giao đã biết đến nay (
Vào tháng 9 năm 2010, hai trường hợp sốt dengue tự phát đã được chẩn đoán tại Pháp đại lục lần đầu tiên. Các trường hợp xảy ra ở Nice, miền nam Pháp, nơi có sự tồn tại của muỗi Aedes albopictus, là bằng chứng cho sự lưu hành của virus dengue trong khu vực này. Sự truyền nhiễm địa phương của dengue nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường giám sát, tìm kiếm ca bệnh chủ động và thực hiện các biện pháp kiểm soát véc tơ để giảm thiểu sự lây lan của virus và nguy cơ bùng phát dịch.
Một gen kháng thuốc colistin