Eurosurveillance

SCOPUS (2001-2023)SCIE-ISI

  1560-7917

  1025-496X

  Thụy Điển

Cơ quản chủ quản:  European Centre for Disease Prevention and Control (ECDC) , EUR CENTRE DIS PREVENTION & CONTROL

Lĩnh vực:
VirologyEpidemiologyPublic Health, Environmental and Occupational HealthMedicine (miscellaneous)

Các bài báo tiêu biểu

Phát hiện coronavirus mới 2019 (2019-nCoV) bằng kỹ thuật RT-PCR thời gian thực Dịch bởi AI
Tập 25 Số 3 - 2020
Victor M. Corman, Olfert Landt, Marco Kaiser, Richard Molenkamp, Adam Meijer, Daniel K. W. Chu, Tobias Bleicker, Sebastian Brünink, Julia Schneider, Marie Luisa Schmidt, Daphne G.J.C. Mulders, Bart L. Haagmans, Bas van der Veer, Sharon van den Brink, Lisa Wijsman, Gabriel Goderski, Jean-Louis Romette, Joanna Ellis, Maria Zambon, Malik Peiris, Herman Goossens, Chantal Reusken, Marion Koopmans, Christian Drosten
Bối cảnh

Trong bối cảnh dịch bùng phát liên tục của coronavirus mới xuất hiện gần đây (2019-nCoV), các phòng thí nghiệm y tế công cộng đang gặp phải thách thức do chưa có được các mẫu virus cách ly, trong khi ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy dịch bệnh lan rộng hơn so với dự đoán ban đầu và sự lây lan quốc tế qua khách du lịch đang xảy ra.

Mục tiêu

Chúng tôi đặt mục tiêu phát triển và triển khai một phương pháp chẩn đoán mạnh mẽ để sử dụng trong môi trường phòng thí nghiệm y tế công cộng mà không cần có sẵn mẫu virus thực tế.

Phương pháp

Chúng tôi trình bày một quy trình chẩn đoán được xác thực cho 2019-nCoV, với thiết kế dựa trên quan hệ gen gần gũi của 2019-nCoV với coronavirus SARS, tận dụng công nghệ axit nucleic tổng hợp.

Kết quả

Quy trình này phát hiện chính xác 2019-nCoV và phân biệt 2019-nCoV với SARS-CoV. Thông qua sự phối hợp giữa các phòng thí nghiệm học thuật và công lập, chúng tôi đã xác nhận tính độc quyền của kết quả thử nghiệm dựa trên 297 mẫu lâm sàng gốc có chứa đầy đủ phổ virus đường hô hấp ở người. Vật liệu kiểm soát được cung cấp thông qua European Virus Archive – Global (EVAg), một dự án cơ sở hạ tầng của Liên minh Châu Âu.

Kết luận

Nghiên cứu hiện tại chứng minh năng lực phản ứng mạnh mẽ đạt được thông qua sự phối hợp giữa các phòng thí nghiệm học thuật và công lập trong các mạng lưới nghiên cứu quốc gia và châu Âu.

#2019-nCoV #chẩn đoán #RT-PCR #y tế công cộng #lây lan quốc tế #phối hợp phòng thí nghiệm #phương pháp mạnh mẽ #kiểm soát dịch bệnh #công nghệ axit nucleic tổng hợp
GISAID: Global initiative on sharing all influenza data – from vision to reality
Tập 22 Số 13 - 2017
Yuelong Shu, John W. McCauley
Ước lượng tỷ lệ ca bệnh không triệu chứng của bệnh coronavirus 2019 (COVID-19) trên tàu du lịch Diamond Princess, Yokohama, Nhật Bản, 2020 Dịch bởi AI
Tập 25 Số 10 - 2020
Kenji Mizumoto, Katsushi Kagaya, Alexander E. Zarebski, Gerardo Chowell

Vào ngày 5 tháng 2 năm 2020, tại Yokohama, Nhật Bản, một tàu du lịch chở 3.711 người đã trải qua 2 tuần cách ly sau khi một hành khách cũ được phát hiện mắc COVID-19 sau khi rời tàu. Tính đến ngày 20 tháng 2, 634 người trên tàu đã có kết quả xét nghiệm dương tính với vi rút gây bệnh. Chúng tôi đã thực hiện mô hình thống kê để suy luận tỷ lệ nhiễm không triệu chứng đã điều chỉnh theo thời gian, cùng với thời gian diễn biến của các ca nhiễm. Tỷ lệ ước tính của các ca không triệu chứng là 17,9% (khoảng tin cậy 95% (CrI): 15,5–20,2%). Hầu hết các ca nhiễm xảy ra trước khi bắt đầu cách ly.

Tăng khả năng lây truyền và sự lan rộng toàn cầu của các biến thể SARS-CoV-2 đáng lo ngại tính đến tháng 6 năm 2021 Dịch bởi AI
Tập 26 Số 24 - 2021
Finlay Campbell, Brett N. Archer, Henry Laurenson‐Schafer, Yuka Jinnai, Frank Konings, Neale Batra, Boris Pavlin, Katelijn Vandemaele, Maria D. Van Kerkhove, Thibaut Jombart, Oliver Morgan, Olivier le Polain de Waroux

Chúng tôi trình bày một phân tích toàn cầu về sự lan rộng của các biến thể SARS-CoV-2 mới nổi gần đây và ước tính sự thay đổi trong số lượng sinh sản hiệu quả ở cấp độ quốc gia cụ thể sử dụng dữ liệu chuỗi gen từ GISAID. Gần như tất cả các quốc gia được khảo sát đều cho thấy sự thay thế nhanh chóng các dòng virus lưu hành trước đó bằng các biến thể đáng lo ngại được Tổ chức Y tế Thế giới chỉ định, với ước lượng mức tăng khả năng lây truyền là 29% (Khoảng tin cậy 95%: 24–33), 25% (Khoảng tin cậy 95%: 20–30), 38% (Khoảng tin cậy 95%: 29–48) và 97% (Khoảng tin cậy 95%: 76–117), tương ứng cho B.1.1.7, B.1.351, P.1 và B.1.617.2.

Đánh giá khả năng lây truyền sớm của các chủng đột biến N501Y của SARS-CoV-2 tại Vương Quốc Anh, tháng 10 đến tháng 11 năm 2020 Dịch bởi AI
Tập 26 Số 1 - 2021
Kathy Leung, Marcus Ho-Hin Shum, GM Leung, Tommy Tsan‐Yuk Lam, Joseph T. Wu

Hai dòng SARS-CoV-2 mới với đột biến N501Y trong miền liên kết thụ thể của protein gai đã lây lan nhanh chóng tại Vương Quốc Anh. Chúng tôi ước tính rằng dòng 501Y trước đó không có thiếu hụt axit amin Δ69/Δ70, lưu hành chủ yếu từ đầu tháng 9 đến giữa tháng 11, có tính lây truyền cao hơn 10% (6–13%) so với dòng 501N, và dòng 501Y có thiếu hụt axit amin Δ69/Δ70, lưu hành từ cuối tháng 9, có tính lây truyền cao hơn 75% (70–80%) so với dòng 501N.

Độ ổn định của virus hội chứng hô hấp Trung Đông (MERS-CoV) dưới các điều kiện môi trường khác nhau Dịch bởi AI
Tập 18 Số 38 - 2013
Neeltje van Doremalen, Trenton Bushmaker, Vincent J. Munster

Tệp tin nhị phân ES_Abstracts_Final_ECDC.txt khớp

Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA): gánh nặng bệnh tật và những thách thức kiểm soát ở châu Âu Dịch bởi AI
Tập 15 Số 41 - 2010
Robin Köck, Karsten Becker, B. Cookson, Julia E.W.C. van Gemert‐Pijnen, Stephan Harbarth, Maurine A. Leverstein–van Hall, Martin Mielke, Georg Peters, Robert Skov, Marc Struelens, Evelina Tacconelli, A Navarro Torné, Wolfgang Witte, Alexander W. Friedrich

Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA) là nguyên nhân chính gây ra các nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khỏe và cộng đồng trên toàn thế giới. Chỉ riêng trong môi trường chăm sóc sức khỏe, ước tính có hơn 150,000 bệnh nhân bị nhiễm MRSA mỗi năm trong Liên minh châu Âu (EU), dẫn đến chi phí bệnh viện bổ sung lên đến 380 triệu euro cho các hệ thống chăm sóc sức khỏe của EU. Dữ liệu giám sát trên toàn châu Âu về các nhiễm trùng máu cho thấy sự biến đổi đáng kể giữa các quốc gia thành viên EU về tỷ lệ S. aureus kháng methicillin, dao động từ dưới 1% tới hơn 50%. Trong năm năm qua, tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết do MRSA đã giảm đáng kể ở 10 quốc gia EU có tỷ lệ nhiễm MRSA cao hơn. Ngoài các nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khỏe, các chủng MRSA mới đã phát sinh gần đây như là các tác nhân gây bệnh ở người liên quan đến cộng đồng và gia súc ở hầu hết các quốc gia thành viên EU. Do đó, việc phòng ngừa và kiểm soát MRSA đã được xác định là những ưu tiên y tế công cộng ở EU. Trong bài tổng quan này, chúng tôi mô tả gánh nặng hiện tại của các nhiễm trùng MRSA trong môi trường chăm sóc sức khỏe và cộng đồng trên khắp châu Âu và phác thảo những mối đe dọa chính do những thay đổi gần đây trong dịch tễ học của MRSA. Qua đó, chúng tôi mong muốn xác định những nhu cầu chưa được đáp ứng trong việc giám sát, phòng ngừa và kiểm soát MRSA ở châu Âu.

#MRSA #Staphylococcus aureus #nhiễm trùng #y tế công cộng #giám sát #phòng ngừa #kiểm soát #châu Âu
PCR đa mồi để phát hiện các yếu tố kháng colistin có thể chuyển giao qua plasmid, mcr-1, mcr-2, mcr-3, mcr-4 và mcr-5 cho mục đích giám sát Dịch bởi AI
Tập 23 Số 6 - 2018
Ana Rita Rebelo, Valeria Bortolaia, Jette Kjeldgaard, Susanne Karlsmose Pedersen, Pimlapas Leekitcharoenphon, Inge M. Hansen, Beatriz Guerra, Burkhard Malorny, Maria Borowiak, Jens A. Hammerl, Antonio Battisti, Alessia Franco, Patricia Alba, Agnès Perrin-Guyomard, Sophie A. Granier, Cristina De Frutos Escobar, Surbhi Malhotra‐Kumar, Laura Villa, Alessandra Carattoli, René S. Hendriksen
Bối cảnh và mục tiêu

Cơ chế kháng colistin trung gian qua plasmid đã được xác định trên toàn cầu trong những năm gần đây. Một phác đồ phản ứng đa mồi khuếch đại (PCR đa mồi) để phát hiện tất cả các gen kháng colistin có thể chuyển giao đã biết đến nay (mcr-1 đến mcr-5, và các biến thể) trong Enterobacteriaceae đã được phát triển cho mục đích giám sát hoặc nghiên cứu. Phương pháp: Chúng tôi đã thiết kế bốn cặp mồi mới để khuếch đại các sản phẩm gen mcr-1, mcr-2, mcr-3mcr-4 và sử dụng các mồi được mô tả ban đầu cho mcr-5 để đạt được sự phân tách từng bước khoảng 200 bp giữa các sản phẩm khuếch đại. Các cặp mồi và điều kiện khuếch đại cho phép phát hiện đơn hay đa các gen mcr đã được mô tả hiện nay và các biến thể của chúng có mặt trong Enterobacteriaceae. Phác đồ này đã được kiểm chứng bằng cách thử nghiệm 49 chủng Escherichia coliSalmonella có nguồn gốc động vật ở châu Âu. Kết quả: Kết quả PCR đa mồi trong các chủng bò và lợn từ Tây Ban Nha, Đức, Pháp và Ý cho thấy sự tương thích hoàn toàn với dữ liệu trình tự toàn bộ genome. Phương pháp này đã phát hiện được mcr-1, mcr-3mcr-4 như các đơn lẻ hoặc kết hợp chúng, khi chúng có mặt trong các chủng kiểm tra. Một biến thể mới của mcr-4, mcr-4.6**, cũng đã được xác định. Kết luận: Phương pháp này cho phép nhận diện nhanh chóng vi khuẩn dương tính với mcr và vượt qua các thách thức trong phát hiện kháng colistin bằng kiểu hình. PCR đa mồi nên đặc biệt hữu ích trong các phòng thí nghiệm có nguồn lực hạn chế trong việc phân tích di truyền khi nó cung cấp thông tin về cơ chế kháng colistin mà không đòi hỏi trình tự genome.

#Colistin kháng #PCR đa mồi #mcr-1 đến mcr-5 #Enterobacteriaceae #giám sát #khoa học di truyền #kháng khuẩn #phương pháp phân tử #[Escherichia coli] #[Salmonella]
Hai trường hợp nhiễm virus dengue tự phát đầu tiên tại Pháp đại lục, tháng 9 năm 2010 Dịch bởi AI
Tập 15 Số 39 - 2010
Guy La Ruche, Yvan Souarès, A. Armengaud, Françoise Peloux-Petiot, Pascal Delaunay, Laurence Briant, Annick Lenglet, Frédéric Jourdain, Isabelle Leparc-Goffart, F. Charlet, Laurence Ollier, K. Mantey, Thomas Mollet, Jean‐Pascal Fournier, Romain Torrents, Katrin Leitmeyer, P Hilairet, H. Zeller, Wim Van Bortel, Dominique Dejour-Salamanca, Marc Grandadam, M. Gastellu-Etchegorry

Vào tháng 9 năm 2010, hai trường hợp sốt dengue tự phát đã được chẩn đoán tại Pháp đại lục lần đầu tiên. Các trường hợp xảy ra ở Nice, miền nam Pháp, nơi có sự tồn tại của muỗi Aedes albopictus, là bằng chứng cho sự lưu hành của virus dengue trong khu vực này. Sự truyền nhiễm địa phương của dengue nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường giám sát, tìm kiếm ca bệnh chủ động và thực hiện các biện pháp kiểm soát véc tơ để giảm thiểu sự lây lan của virus và nguy cơ bùng phát dịch.

Gen kháng thuốc colistin mcr-4 mới thông qua plasmid trong Salmonella và Escherichia coli, Italy 2013, Tây Ban Nha và Bỉ, 2015 đến 2016 Dịch bởi AI
Tập 22 Số 31 - 2017
Alessandra Carattoli, Laura Villa, Claudia Feudi, Ludovica Curcio, Serenella Orsini, Andrea Luppi, Giovanni Pezzotti, Chiara Francesca Magistrali

Một gen kháng thuốc colistin mcr mới đã được xác định trong một chủng Salmonella enterica, biến thể đơn pha của serovar Typhimurium (4,5,12:i:- ), được thu thập từ một con lợn tại lò mổ ở Italy vào năm 2013, và trong các chủng Escherichia coli được thu thập trong quá trình chẩn đoán thường xuyên về tiêu chảy sau cai sữa ở lợn từ Tây Ban Nha và Bỉ vào năm 2015 và 2016. Việc áp dụng ngay lập tức việc sàng lọc mcr bao gồm biến thể gen mới này là cần thiết đối với SalmonellaE. coli từ con người và động vật sản xuất thực phẩm ở châu Âu.

#mcr #kháng thuốc colistin #Salmonella #Escherichia coli #gen kháng thuốc #châu Âu