Eurosurveillance
Công bố khoa học tiêu biểu
* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo
Tập tin nhị phân ES_Abstracts_Final_ECDC.txt khớp
Hầu hết các ca bệnh đậu mùa khỉ ở người được báo cáo xảy ra ở Trung và Tây Phi, nơi virus gây bệnh là bản địa. Chúng tôi mô tả việc xác định và phản ứng của y tế công cộng đối với một ca bệnh đậu mùa khỉ Tây Phi được nhập khẩu từ Nigeria đến Vương quốc Anh (UK) vào tháng 5 năm 2021. Việc lây truyền thứ cấp từ ca bệnh chỉ điểm đã xảy ra trong gia đình đến một người lớn khác và một trẻ nhỏ. Các biện pháp kiểm soát liên quan đến COVID-19 được thực hiện ngay khi nhập cảnh và tại bệnh viện đã giúp phát hiện và hạn chế số lượng tiếp xúc tiềm tàng.
Từ ngày 7 đến 25 tháng 5, 86 trường hợp mắc bệnh đậu mùa khỉ đã được xác nhận tại Vương quốc Anh. Chỉ một trường hợp được biết là đã di chuyển đến một quốc gia có virus đậu mùa khỉ (MPXV) lưu hành. Bảy mươi chín trường hợp có thông tin cho biết là nam giới và 66 người trong số đó báo cáo là gay, song tính, hoặc những nam giới khác có quan hệ tình dục với nam giới. Đây là trường hợp truyền MPXV liên tục đầu tiên được báo cáo tại Vương quốc Anh, với việc truyền bệnh từ người sang người thông qua các tiếp xúc gần gũi, bao gồm cả trong các mạng lưới tình dục. Các biện pháp cải thiện phát hiện trường hợp và ngăn ngừa lây truyền tiếp tục được thực hiện.
Sự lây lan toàn cầu của virus đậu mùa khỉ hiện nay và sự thiếu thốn dữ liệu về khả năng lây nhiễm của các mẫu lâm sàng yêu cầu phải xem xét khả năng lây nhiễm của virus, và liệu điều này có tương quan với kết quả từ PCR, công cụ chẩn đoán hiện có. Chúng tôi cho thấy có mối tương quan mạnh mẽ giữa lượng ADN virus trong các mẫu lâm sàng và khả năng lây nhiễm virus đối với dòng tế bào BSC-1. Hơn nữa, chúng tôi xác định một giá trị ngưỡng PCR (Cq ≥ 35, ≤ 4.300 bản sao ADN/mL), tương ứng với các nuôi cấy virus âm tính, điều này có thể hỗ trợ đánh giá rủi ro và đưa ra quyết định về các biện pháp bảo vệ cũng như hướng dẫn cho các bệnh nhân mắc đậu mùa khỉ.
Đại dịch bệnh viêm phổi coronavirus đã được công bố vào tháng 3 năm 2020, khi mùa đông ở bán cầu nam bắt đầu. Úc đã dự báo sự lưu hành đồng thời của virus coronavirus gây hội chứng hô hấp cấp nặng 2 (SARS-CoV-2), virus cúm và các virus hô hấp theo mùa khác. Tuy nhiên, số lượng thông báo cúm ghi nhận được là 7.029 (từ tháng 3 đến tháng 9) so với mức trung bình 149.832 trong cùng kỳ năm 2015–2019*, mặc dù đã có nhiều xét nghiệm được thực hiện. Các hạn chế về di chuyển bên trong và vào Úc có thể đã tạm thời loại bỏ cúm. Các tác nhân gây bệnh hô hấp khác cũng cho thấy hoạt động thay đổi rõ rệt trong năm 2020.
Tại Antwerp, Bỉ, đã ghi nhận 403 trường hợp ngộ độc hải sản gây tiêu chảy sau khi tiêu thụ ngao xanh. Các triệu chứng bao gồm tiêu chảy, nôn mửa, đau bụng và buồn nôn. Phân tích mẫu phân từ bệnh nhân cho phép loại trừ chẩn đoán liên quan đến vi khuẩn và virus. Các thí nghiệm trên chuột cho thấy sự hiện diện của các biotoxin đặc hiệu của tảo dinh dưỡng, đã được xác định và định lượng bằng phương pháp LC-MS. Những con ngao này được nhập khẩu từ Đan Mạch và thuộc về một lô hàng có nồng độ axit okadaic cao vượt mức quy định.
Một gen kháng thuốc colistin
Vào tháng 9 năm 2010, hai trường hợp sốt dengue tự phát đã được chẩn đoán tại Pháp đại lục lần đầu tiên. Các trường hợp xảy ra ở Nice, miền nam Pháp, nơi có sự tồn tại của muỗi Aedes albopictus, là bằng chứng cho sự lưu hành của virus dengue trong khu vực này. Sự truyền nhiễm địa phương của dengue nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường giám sát, tìm kiếm ca bệnh chủ động và thực hiện các biện pháp kiểm soát véc tơ để giảm thiểu sự lây lan của virus và nguy cơ bùng phát dịch.
Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA) là nguyên nhân chính gây ra các nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khỏe và cộng đồng trên toàn thế giới. Chỉ riêng trong môi trường chăm sóc sức khỏe, ước tính có hơn 150,000 bệnh nhân bị nhiễm MRSA mỗi năm trong Liên minh châu Âu (EU), dẫn đến chi phí bệnh viện bổ sung lên đến 380 triệu euro cho các hệ thống chăm sóc sức khỏe của EU. Dữ liệu giám sát trên toàn châu Âu về các nhiễm trùng máu cho thấy sự biến đổi đáng kể giữa các quốc gia thành viên EU về tỷ lệ S. aureus kháng methicillin, dao động từ dưới 1% tới hơn 50%. Trong năm năm qua, tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết do MRSA đã giảm đáng kể ở 10 quốc gia EU có tỷ lệ nhiễm MRSA cao hơn. Ngoài các nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khỏe, các chủng MRSA mới đã phát sinh gần đây như là các tác nhân gây bệnh ở người liên quan đến cộng đồng và gia súc ở hầu hết các quốc gia thành viên EU. Do đó, việc phòng ngừa và kiểm soát MRSA đã được xác định là những ưu tiên y tế công cộng ở EU. Trong bài tổng quan này, chúng tôi mô tả gánh nặng hiện tại của các nhiễm trùng MRSA trong môi trường chăm sóc sức khỏe và cộng đồng trên khắp châu Âu và phác thảo những mối đe dọa chính do những thay đổi gần đây trong dịch tễ học của MRSA. Qua đó, chúng tôi mong muốn xác định những nhu cầu chưa được đáp ứng trong việc giám sát, phòng ngừa và kiểm soát MRSA ở châu Âu.
Tệp tin nhị phân ES_Abstracts_Final_ECDC.txt khớp
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10