European Neurology
SCOPUS (1897-2023)SCIE-ISI
1421-9913
0014-3022
Thụy Sĩ
Cơ quản chủ quản: S. Karger AG , KARGER
Các bài báo tiêu biểu
<i>Đặt vấn đề:</i> Khó nuốt là hiện tượng phổ biến sau đột quỵ. Chúng tôi nhằm mục tiêu nghiên cứu tiên lượng của tình trạng khó nuốt (được đánh giá lâm sàng) trong vòng 3 tháng đầu sau đột quỵ cấp tính và xác định xem các vị trí giải phẫu thần kinh - mạch máu cụ thể có liên quan đến rối loạn nuốt hay không. <i>Phương pháp:</i> Chúng tôi đã tiến hành khảo sát các bệnh nhân liên tiếp bị đột quỵ lần đầu cấp tính. Việc đánh giá khó nuốt được thực hiện bằng các phương pháp lâm sàng tiêu chuẩn hóa. Các vùng động mạch liên quan được xác định trên CT/MRI. Tất cả bệnh nhân đều được theo dõi trong 3 tháng. <i>Kết quả:</i> 34,7% trong số 406 bệnh nhân có triệu chứng khó nuốt. Tình trạng khó nuốt phổ biến hơn ở những bệnh nhân bị đột quỵ xuất huyết (31/63 so với 110/343; p = 0,01). Ở những bệnh nhân bị đột quỵ thiếu máu cục bộ, vùng động mạch của động mạch não giữa lớn là yếu tố thường xuyên liên quan đến tình trạng khó nuốt (28,2 so với 2,2%; p < 0,0001). Phân tích đa biến cho thấy tỷ lệ tử vong và tàn tật do đột quỵ có liên quan độc lập với sự xuất hiện khó nuốt (p < 0,0001). <i>Kết luận:</i> Tần suất gặp khó nuốt là tương đối cao. Về mối tương quan giải phẫu - lâm sàng, yếu tố quan trọng nhất là kích thước thay vì vị trí của tổn thương. Khó nuốt được đánh giá lâm sàng là biến số quan trọng dự đoán tỷ lệ tử vong và tàn tật trong 90 ngày.
<i>Background:</i> Diagnostic criteria for the Guillain-Barré syndrome (GBS) have been available since 1978. Since then, several variants have been described. More recently, a distinction has been made between pure motor forms, severe sensory forms, primary axonal and primary demyelinating varieties. Associations of clinical characteristics, and specific infections and the presence of antiganglioside antibodies have been found. For further studies on GBS, it is therefore necessary to reconsider the available diagnostic criteria and add additional criteria for subclassification. <i>Methods: </i>A panel of (20) experts was formed. The literature representing the recent developments in GBS subclassification was reviewed. Following a consensus protocol, diagnostic and classification criteria were formulated. <i>Results:</i> The diagnosis of GBS can usually be made on clinical characteristics. A schedule for subclassification has been made to cover also the clinical variants in a systematic manner.
Đã được biết rằng bệnh celiac có thể liên quan đến nhiều biểu hiện thần kinh khác nhau. Trong những năm gần đây, chúng tôi đã nghi ngờ cao về bệnh celiac tại phòng khám thần kinh của mình. Kết quả là 10 (7%) trong số 144 bệnh nhân celiac mới được phát hiện do triệu chứng thần kinh. Các biểu hiện thần kinh phổ biến nhất là bệnh thần kinh, suy giảm trí nhớ và chứng mất thăng bằng tiểnbình. Trong các nhóm bệnh nhân này, việc sàng lọc bệnh celiac bằng các xét nghiệm kháng thể huyết thanh giúp phát hiện những bệnh nhân có thể mắc phải căn bệnh này.
Các thay đổi chất trắng (WMC), được phát hiện bằng các kỹ thuật hình ảnh, thường gặp ở bệnh nhân đột quỵ. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định mối quan hệ giữa WMC với các loại đột quỵ và kết quả của đột quỵ. Chúng tôi đã thực hiện một tìm kiếm hệ thống trên Medline cho các bài báo có xuất hiện với hai từ khóa sau: ‘WMC hoặc tổn thương chất trắng hoặc leukoencephalopathy hoặc leukoaraiosis’ và ‘đột quỵ hoặc nhồi máu não hoặc xuất huyết não hoặc bệnh mạch máu não hoặc cơn thiếu máu não tạm thời (TIA)’. WMC, theo định nghĩa hình ảnh, có mặt ở tới 44% bệnh nhân bị đột quỵ hoặc TIA và ở 50% bệnh nhân bị sa sút trí tuệ mạch máu. WMC thường gặp hơn ở những bệnh nhân có nhồi máu tiểu não, xuất huyết não sâu, bệnh động mạch tự miễn tính dị hình não tự chủ có nhồi máu dưới vỏ và leukoencephalopathy và bệnh amyloid mạch não. Sau một cơn đột quỵ thiếu máu não cấp tính, WMC có liên quan đến nguy cơ tử vong hoặc phụ thuộc cao hơn, tái phát đột quỵ bất kỳ loại nào, xuất huyết não dưới sự điều trị chống đông, nhồi máu cơ tim, và sa sút trí tuệ sau đột quỵ. WMC ở bệnh nhân đột quỵ thường liên quan đến bệnh mạch máu nhỏ và dẫn đến nguy cơ tử vong cao hơn, và kết quả tim mạch và thần kinh kém. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều câu hỏi cần được làm sáng tỏ và cần có thêm nghiên cứu.
<b><i>Nền tảng:</i></b> Hoạt động thần kinh liên tục của não trong giấc ngủ có thể được theo dõi bằng tín hiệu điện não đồ (EEG). Mô hình sóng EEG và tần số thay đổi trong năm giai đoạn của giấc ngủ. Những biến đổi tinh tế này trong tín hiệu EEG của giấc ngủ không thể dễ dàng phát hiện qua quan sát bằng mắt thường. <b><i>Tóm tắt:</i></b> Một loạt các phương pháp phân tích thời gian, tần số, thời gian-tần số và phi tuyến có thể được áp dụng để hiểu các tín hiệu sinh lý phức tạp và hành vi hỗn loạn của chúng. Bài báo này trình bày một đánh giá so sánh toàn diện và phân tích 29 thước đo động lực phi tuyến cho việc phát hiện giai đoạn ngủ dựa trên EEG. <b><i>Thông điệp chính:</i></b> Các khoảng giá trị đặc trưng của những đặc điểm này được báo cáo cho năm giai đoạn ngủ khác nhau. Tất cả các thước đo phi tuyến đều sản xuất ra các kết quả có ý nghĩa lâm sàng, tức là, chúng có thể phân biệt các giai đoạn ngủ riêng biệt. Tuy nhiên, thứ hạng các đặc trưng dựa trên giá trị F thống kê cho thấy rằng tích của bậc ba của phổ bậc cao tạo ra kết quả phân biệt nhất. Các giá trị khác biệt cho mỗi giai đoạn ngủ và sức mạnh phân biệt của các đặc tính có thể được sử dụng cho chẩn đoán rối loạn giấc ngủ, việc theo dõi điều trị, và đánh giá hiệu quả của thuốc.