Epilepsia

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
Sudden Death in Epilepsy: A Study of Incidence in a Young Cohort with Epilepsy and Learning Difficulty
Epilepsia - Tập 36 Số 12 - Trang 1187-1194 - 1995
Lina Nashef, D. R. Fish, S. Garner, Josemir W. Sander, Simon Shorvon

Summary: Sudden death, often seizure related, may occur in patients with epilepsy. Population‐based incidence is probably on the order of 1:1,000/year. The incidence is much higher in selected groups, however. We wished to establish the incidence of sudden unexpected death (SUD) in a young cohort with severe epilepsy and learning difficulties. The study cohort included 310 pupils with epilepsy enrolled at a special residential school between April 1970 and April 1993. The follow‐up period totaling 4,135 person‐years included a period of residence at the school as well as time after leaving. Age and sex standardized overall mortality ratio was 15.9 [95% confidence interval (CI) 10.6–23.0], with 20 of 28 deaths considered epilepsy related. An incidence of sudden death cases of 1:295/year was noted. All 14 sudden deaths occurred when the pupils were not under the close supervision of the school and most were unwitnessed, which has implications for prevention.

History of the ketogenic diet
Epilepsia - Tập 49 Số s8 - Trang 3-5 - 2008
James W. Wheless
<sc>Summary</sc>

Fasting and other dietary regimens have been used to treat epilepsy since at least 500 BC. To mimic the metabolism of fasting, the ketogenic diet (KD) was introduced by modern physicians as a treatment for epilepsy in the 1920s. For two decades this therapy was widely used, but with the modern era of antiepileptic drug treatment its use declined dramatically. By the end of the twentieth century this therapy was available in only a small number of children's hospitals. Over the past 15 years, there has been an explosion in the use, and scientific interest in the KD. This review traces the history of one of the most effective treatments for childhood epilepsy.

Prospective Long‐Term Study of Vagus Nerve Stimulation for the Treatment of Refractory Seizures
Epilepsia - Tập 41 Số 9 - Trang 1195-1200 - 2000
Christopher M. DeGiorgio, Steven C. Schachter, Adrian Handforth, Martin Salinsky, Jason D. Thompson, Basim M. Uthman, Ronald C. Reed, Sprenker Collin, Evelyn S. Tecoma, George L. Morris, Bradley V. Vaughn, Dean K. Naritoku, Thomas R. Henry, Douglas Labar, R. C. Gilmartin, David M. Labiner, Ivan Osorio, R. Ristanovic, J. Jones, J. V. Murphy, G. C. Ney, James W. Wheless, Paul B. Lewis, Christi Heck

Summary: Purpose: To determine the long‐term efficacy of vagus nerve stimulation (VNS) for refractory seizures. VNS is a new treatment for refractory epilepsy. Two short‐term double‐blind trials have demonstrated its safety and efficacy, and one long‐term study in 114 patients has demonstrated a cumulative improvement in efficacy at 1 year. We report the largest prospective long‐term study of VNS to date.

Methods: Patients with six or more complex partial or generalized tonic‐clonic seizures enrolled in the pivotal EOS study were prospectively evaluated for 12 months. The primary outcome variable was the percentage reduction in total seizure frequency at 3 and 12 months after completion of the acute EO5 trial, compared with the preimplantation baseline. Subjects originally randomized to low stimulation (active‐control group) were crossed over to therapeutic stimulation settings for the first time. Subjects initially randomized to high settings were maintained on high settings throughout the 12‐month study.

Results: The median reduction at 12 months after completion of the initial double‐blind study was 45%. At 12 months, 35% of 195 subjects had a >50% reduction in seizures, and 20% of 195 had a >75% reduction in seizures.

Conclusions: The efficacy of VNS improves during 12 months, and many subjects sustain >75% reductions in seizures.

Vagus Nerve Stimulation for Treatment of Partial Seizures: 3. Long‐Term Follow‐Up on First 67 Patients Exiting a Controlled Study
Epilepsia - Tập 35 Số 3 - Trang 637-643 - 1994
Richard E. George, Martin Salinsky, Ruben Kuzniecky, William E. Rosenfeld, Donna Bergen, W. Brent Tarver, J. F. Wernicke

Summary: Vagus nerve stimulation (VNS) has demonstrated a significant anticonvulsant effect in preclinicalstudies, in pilot studies in humans, and in the acute phaseof a multicenter, double‐blinded, randomized study. After completion of a 14–week, blinded, randomized study, with 31 receiving high (therapeutic) VNS and 36 receiving low (less or noneffective) VNS, 67 patients elected tocontinue in an open extension phase. During the extension phase, all 67 patients received high VNS. Seizurefrequency during the 3‐month treatment blocks was compared with a 12–week baseline. For both groups, all periods of high VNS demonstrated a significant decrease inseizure frequency (p < 0.01 level) as compared with baseline. For the 16–18–month period of VNS, data wereavailable for 26 of the 31 patients randomized to highVNS. This group achieved a 52.0% mean seizure frequency percentage réduction as compared with baseline. For those converted from low to high VNS, data wereavailable for 24 of the 36 patients at the 16–18‐month timeperiod. This group reported a mean seizure frequency percentage reduction of 38.1% as compared with baseline. No significant change in the safetyhde effect profilewas reported during longterm followup. The previouslyreported side effects of hoarsenesslvoice change, coughing, and paresthesia (sensation in neck and jaw) continued to occur during VNS. These side effects were well tolerated. During the follow‐up period, 1 patient died of thrombotic thrombocytopenic purpura (TTP) and 5 patients discontinued treatment because of unsatisfactory efficacy.

Sự Nhạy Cảm Đối Với Động Kinh Thính Giác Ở Chuột Biến Gen Mang Hội Chứng Fragile X Dịch bởi AI
Epilepsia - Tập 41 Số 1 - Trang 19-23 - 2000
S Musumeci, Paolo Bosco, Giuseppe Calabrese, Cathy Bakker, Giovanni Battista De Sarro, Maurizio Elia, Raffaele Ferri, Ben A. Oostra

Tóm Tắt: Mục tiêu: Để đánh giá độ nhạy cảm của chúng đối với động kinh thính giác, năm nhóm chuột knockout với các dạng khác nhau liên quan đến di truyền fragile X [chuột đực hemizygous (n = 46), và chuột cái homozygous (n = 38) và heterozygous (n = 45), cùng với chuột đực (n = 45) và cái (n = 52) bình thường của chúng] đã được nghiên cứu.

Phương pháp: Tất cả các nhóm chuột được kiểm tra ở các độ tuổi 17, 22, 35, và 45 ngày. Độ nhạy cảm đối với động kinh thính giác được ghi điểm, và phân tích phương sai được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng của độ tuổi và tình trạng di truyền đối với điểm độ nặng cơn động kinh (SSS).

Kết quả: Tất cả các nhóm chuột fragile X knockout đều thể hiện SSS cao hơn đáng kể so với những con chuột loại hoang dã của chúng; trong số chuột knockout, đực hemizygous và cái homozygous cho thấy SSS cao nhất. Chuột đực hemizygous cho thấy SSS tăng cao theo độ tuổi, từ 17 đến 45 ngày; chuột cái homozygous cho thấy đỉnh điểm ở tuổi 22 ngày, sau đó giảm; cuối cùng, chuột cái heterozygous có SSS cao nhất ở tuổi 17 ngày.

Kết luận: Nghiên cứu này chứng minh rằng độ nhạy cảm gia tăng đối với động kinh thính giác có mặt ở chuột knockout fragile X ở tất cả các độ tuổi được thử nghiệm. Những kết quả này hỗ trợ tính hợp lệ của mô hình động vật này cho cả động kinh và cơn động kinh trong hội chứng fragile X của con người.

#động kinh thính giác #chuột biến gen #hội chứng fragile X #độ nhạy cảm #nghiên cứu động vật
Những gì đã được biết về các cơ chế tiềm ẩn SUDEP? Dịch bởi AI
Epilepsia - Tập 49 Số s9 - Trang 93-98 - 2008
Elson L. So
Tóm tắt

Bài báo này nêu bật các nghiên cứu trong ba lĩnh vực chính về các cơ chế tiềm ẩn của cái chết đột ngột không rõ nguyên nhân trong động kinh (SUDEP): tim mạch, hô hấp và tự động. Ngừng tim trong cơn động kinh là một cơ chế tiềm ẩn của SUDEP hiếm khi xảy ra trong lâm sàng nhưng đã được công nhận. Các nghiên cứu chưa xác định được những bất thường điện sinh lý hoặc cấu trúc tim mạch có trước mà phân biệt được những người bị SUDEP. Một mức độ nghẽn phổi nhất định là phát hiện phổ biến trong khám nghiệm tử thi, nhưng phù phổi nặng xảy ra rất hiếm khi có cơn động kinh. Ngược lại, ngưng thở và thiếu oxy trong thời gian đầu cơn xảy ra phổ biến với các cơn động kinh giật cơ toàn thân và ít hơn ở các cơn động kinh cục bộ phức tạp. Có một số mô hình động vật về ngừng thở sau cơn. Ngừng thở sau cơn ở chuột có cơn động kinh do âm thanh có thể được kích thích bởi sự ức chế thụ thể serotonin hoặc ngăn ngừa bởi các loại thuốc ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRI). Sự giảm độ biến thiên nhịp tim xảy ra ở những bệnh nhân động kinh kháng trị và có thể được kích thích ở các mô hình cơn động kinh động vật, nhưng vai trò chính xác của nó trong việc làm tăng nguy cơ cho cái chết đột ngột cần có thêm nghiên cứu.

#SUDEP #cái chết đột ngột không rõ nguyên nhân #ngừng tim #ngừng thở #tự động #động kinh.
Mapping an X‐linked locus that influences heat‐induced febrile seizures in mice Dịch bởi AI
Epilepsia - Tập 53 Số 8 - Trang 1399-1410 - 2012
Ellen V.S. Hessel, Hein A. van Lith, Inge G. Wolterink‐Donselaar, Marina de Wit, Debbie A.E. Hendrickx, Martien J. Kas, P.N.E. de Graan
Tóm tắt

Mục đích:  Co giật do sốt (FS) là loại co giật phổ biến nhất ở trẻ em từ 6 tháng đến 5 năm tuổi. Mặc dù FS chủ yếu là lành tính, nhưng FS tái phát là yếu tố nguy cơ chính dẫn đến sự phát triển của bệnh động kinh thùy thái dương (TLE) ở giai đoạn sau của cuộc đời. Các cơ chế dẫn đến FS vẫn chủ yếu chưa được biết đến; tuy nhiên, các nghiên cứu về gia đình và sinh đôi cho thấy sự nhạy cảm với FS chịu sự kiểm soát di truyền phức tạp. Chúng tôi gần đây đã phát triển một phương pháp sàng lọc biểu hiện để nghiên cứu di truyền của sự nhạy cảm với FS ở chuột. Sử dụng phương pháp này trong một chiến lược di truyền dựa trên kiểu hình, chúng tôi đã phân tích bảng thay thế nhiễm sắc thể C57BL/6J‐Chr #A/NaJ (CSS). Trong mỗi dòng CSS, một nhiễm sắc thể của dòng A/J được thay thế trong bối cảnh di truyền đồng nhất C57BL/6J. Phân tích bảng CSS cho thấy rằng các nhiễm sắc thể A/J 1, 2, 6, 10, 13 và X mang ít nhất một địa điểm tính trạng định lượng (QTL) cho sự nhạy cảm với FS do nhiệt độ cao. Thực tế là nhiều gen liên kết với nhiễm sắc thể X có biểu hiện cao trong não và đã được liên kết với các rối loạn phát triển ở người thường có biểu hiện co giật (như chậm phát triển trí tuệ Fragile X) đã thúc đẩy chúng tôi lập bản đồ QTL trên nhiễm sắc thể X.

Phương pháp:  Chuột C57BL/6J được lai với C57BL/6J‐Chr XA/NaJ (CSSX) để tạo ra thế hệ F2—CXBL6 và BL6CX—xuất phát từ CSSX hoặc mẹ C57BL/6J, tương ứng. FS do nhiệt độ cao được kích thích vào ngày 14 sau sinh bằng cách tiếp xúc với luồng không khí nóng kiểm soát 50°C. Thời gian trễ đến FS do nhiệt độ cao là kiểu hình của chúng tôi. Kiểu hình này đã được xác thực bằng cách giám sát video–điện não đồ (EEG). Sau khi đánh giá kiểu hình và phân loại gen của quần thể F2, phân tích QTL được thực hiện bằng phần mềm R/QTL.

Kết quả chủ chốt:  Phân tích QTL cho thấy một đỉnh đáng kể với điểm LOD là 3.25. Khoảng tin cậy 1-LOD (149,886,866–158,836,462 bp) bao gồm 52 gen mã hóa protein, trong đó 34 gen được biết là có biểu hiện trong não. Hai trong số các gen biểu hiện trong não này đã được liên kết trước đó với các bệnh động kinh liên kết với nhiễm sắc thể X, cụ thể là Cdkl5 và Pdha1.

Ý nghĩa:  Kết quả của chúng tôi cho thấy di truyền chuột về sự nhạy cảm với FS liên kết với nhiễm sắc thể X là phức tạp, và rằng phương pháp di truyền dựa trên FS do nhiệt độ cao của chúng tôi là một công cụ mạnh mẽ để sử dụng trong việc giải mã sự phức tạp của đặc điểm này ở chuột. Các nghiên cứu xác định chi tiết hơn và chức năng sẽ cần thiết để xác định thêm các gen nhạy cảm với FS liên kết với nhiễm sắc thể X.

Động kinh khởi phát sớm và cái chết bất ngờ không mong đợi trong động kinh với rối loạn nhịp tim ở chuột mang đột biến thay thế axit amin FHF1(FGF12) liên quan đến động kinh uşa em bé 47 (EIEE47) Dịch bởi AI
Epilepsia - Tập 62 Số 7 - Trang 1546-1558 - 2021
Jana Velı́šková, Christopher Marra, Yue Liu, Akshay Shekhar, David Park, Vasilisa Iatckova, Ying Xue Xie, Glenn I. Fishman, Libor Velı́šek, Mitchell Goldfarb
Tóm tắtMục tiêu

Các yếu tố homolog protein tăng trưởng fibroblast (FHFs) là các protein liên kết kênh natri trong não và tim, điều chỉnh độ dày kênh và kiểm soát quá trình không kích hoạt. Một đột biến thay thế axit amin trội de novo lặp lại trong gen FHF1(FGF12) (p.Arg52His) có liên quan đến động kinh não sớm ở trẻ sơ sinh 47 (EIEE47; cơ sở dữ liệu Kế thừa Mendel trực tuyến 617166). Để xác định xem đột biến thay thế axit amin FHF1 có đủ để gây ra EIEE và thiết lập mô hình động vật cho EIEE47, chúng tôi đã tìm cách tạo ra đột biến này trong chuột.

Phương pháp

Đột biến Arg52His được giới thiệu vào trứng thụ tinh bằng kỹ thuật chỉnh sửa CRISPR (các lặp lại ngắn Palindromic thường xuyên phân tách) để tạo ra chuột Fhf1R52H/F+. Các sự kiện điện kinh tự phát ở chuột Fhf1R52H/+ được đánh giá bằng điện não đồ (EEG) và giám sát video. Nhịp tim cơ bản và rối loạn nhịp tim do co giật được ghi lại bằng điện tâm đồ. Sự điều chỉnh quá trình không kích hoạt của kênh natri tim bởi protein FHF1BR52H được kiểm tra thông qua ghi lại điện áp của các tế bào cơ tim thiếu FHF bị nhiễm virus adenovirus biểu hiện protein FHF1B kiểu hoang dã hoặc FHF1BR52H.

Kết quả

Tất cả các chuột Fhf1R52H/+ đều trải qua cơn co giật hoặc các tập hợp giống như co giật dẫn đến cái chết trong khoảng từ 12 đến 26 ngày tuổi. Các ghi chép EEG ở chuột 19-20 ngày tuổi đã xác nhận cái chết bất ngờ không mong đợi trong động kinh (SUDEP) khi chứng kiến những cơn co giật mạnh mẽ dẫn đến việc mất hoạt động não và cái chết. Trong vòng 2–53 giây sau khi khởi phát cơn co giật gây chết, nhịp tim đột ngột giảm từ 572 ± 16 nhịp/phút xuống còn 108 ± 15 nhịp/phút, cho thấy có sự gia tăng hệ thần kinh phó giao cảm đi kèm với cơn co giật có thể đóng góp vào SUDEP. Mặc dù sự biểu hiện quá mức FHF1BR52H trong các tế bào cơ tim gây ra sự dịch chuyển 15 mV của điện áp của quá trình không kích hoạt kênh natri ở trạng thái ổn định và làm chậm tốc độ không kích hoạt của kênh, nhịp tim vẫn bình thường ở chuột Fhf1R52H/+ trước khi xảy ra cơn co giật.

Tầm quan trọng

Đột biến thay thế axit amin Fhf1 p.Arg52His gây ra động kinh não với khả năng thâm nhập đầy đủ ở chuột. Các đột biến thay thế axit amin Fhf1 (p.Arg52His) và Scn8a (p.Asn1768Asp) đều làm tăng dòng sodium kênh Nav1.6 và gây ra SUDEP với chậm nhịp ở chuột, cho thấy một trục chức năng FHF1/Nav1.6 cơ bản liên quan đến sự thay đổi trong quá trình điều khiển kênh natri não trong động kinh não.

#đột biến #động kinh #chuột #FHF1 #ERIEE47 #SUDEP
Tình trạng động kinh liên tục trong hội chứng X dễ bị tổn thương Dịch bởi AI
Epilepsia - Tập 51 Số 12 - Trang 2470-2473 - 2010
Magali Gauthey, Claudia B. Poloni, Gian‐Paolo Ramelli, Eliane Roulet‐Perez, Christian Korff
Tóm tắt

Động kinh là phổ biến trong hội chứng X dễ bị tổn thương (FXS), nguyên nhân phổ biến nhất của chậm phát triển trí tuệ di truyền. Tuy nhiên, tình trạng động kinh liên tục (SE) dường như là điều hiếm gặp trong FXS, đặc biệt là như một biểu hiện động kinh ban đầu. Theo hiểu biết của chúng tôi, SE chỉ được báo cáo ở bốn bệnh nhân FXS. Chúng tôi báo cáo các đặc điểm lâm sàng và kết quả điện não đồ (EEG) của năm trẻ em mắc FXS, những người đã xuất hiện SE như là cơn động kinh ban đầu của họ.

Co giật do âm thanh như một mô hình tử vong đột ngột trong bệnh động kinh: Một nghiên cứu so sánh giữa bốn chủng chuột gần gũi từ tuổi thơ đến trưởng thành Dịch bởi AI
Epilepsia - Tập 61 Số 2 - Trang 342-349 - 2020
Benoı̂t Martin, Gabriel Dieuset, Jodi L. Pawluski, Nathalie Costet, Arnaud Biraben
Tóm tắtMục tiêu

Các mô hình chuột về tử vong đột ngột không mong đợi ở bệnh nhân động kinh (SUDEP) sử dụng các cơn co giật do âm thanh (AGS) rất có giá trị vì cái chết có thể xảy ra sau một cơn co giật do tiếng động mà không có bất kỳ thành phần dược lý hay điện nào. Tuy nhiên, chỉ có một vài dòng chuột có nguy cơ AGS, và phần lớn các nghiên cứu liên quan đến các dòng chuột inbred DBA/2 hoặc DBA/1. Với mục tiêu phân tích sự biến đổi trong độ nhạy cảm với AGS theo tuổi, cũng như cung cấp một bảng chuột lớn hơn có sẵn cho các nghiên cứu AGS, chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu so sánh về sự biến đổi trong phản ứng AGS.

Phương pháp

Sự biến đổi của AGS theo tuổi được xác định ở hai dòng chuột inbred truyền thống, DBA/2 và DBA/1, cùng với hai dòng bổ sung, BALB/c và 129/SvTer. Vì các cơn co giật do AGS có thể gây tử vong hoặc không gây tử vong, ngay cả trong cùng một dòng chuột, trong một thí nghiệm thứ hai, chúng tôi đã xem xét liệu có sự khả năng bẩm sinh để tái sản xuất cùng một phản ứng sau một cơn AGS tonic, được gọi là “sự xác định,” ở các dòng chuột DBA/2J, DBA/1J và 129/SvTer hay không.

Kết quả

Kết quả cho thấy chuột 129/SvTer là một mô hình linh hoạt hơn cho SUDEP nhờ độ nhạy cảm với độ tuổi rộng hơn so với các dòng chuột DBA/2J và DBA/1J. Ngoài ra, chúng tôi cho thấy rằng sự xác định không phải lúc nào cũng hiện rõ ở các dòng DBA/2J và 129/SvTer sau khi AGS. Do đó, không thể chắc chắn rằng một cơn AGS gây tử vong sẽ luôn gây tử vong trong các thử nghiệm tiếp theo sau hồi sức và ngược lại trong hai dòng chuột này.

Ý nghĩa

Các nghiên cứu này làm nổi bật sự biến đổi kiểu hình của AGS ở các dòng chuột khác nhau, cho thấy giá trị của một dòng chuột bổ sung, 129/SvTer, cho các nghiên cứu sử dụng AGS, và do đó cung cấp thông tin quý giá cho các nghiên cứu tương lai về AGS và SUDEP.

Tổng số: 343   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10