Emerald
Công bố khoa học tiêu biểu
* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo
– Mục đích của bài báo này là xác định ảnh hưởng của đạo đức công việc Hồi giáo đối với hành vi công dân tổ chức trong các tổ chức báo chí Jordan, và chỉ ra yếu tố quan trọng nhất của đạo đức công việc Hồi giáo.
– Nghiên cứu hiện tại áp dụng phương pháp phân tích mô tả dựa trên khảo sát thực địa. Dân số nghiên cứu bao gồm bảy tờ báo hàng ngày ở Jordan vào năm 2010. Một mẫu chọn ngẫu nhiên phân tầng của ban lãnh đạo và quản lý điều hành đã được lấy, tỷ lệ với kích thước của từng tổ chức. Tổng cộng, 66 bảng hỏi đã được phân phát đến 30% trong số 218 nhà quản lý được nhắm đến, và 175 bảng hỏi đã được phân phát đến 15% trong số nhân viên, tổng cộng 1.163 người. Tổng cộng, 204 bảng hỏi đã được thu thập. Tần số và phần trăm được sử dụng để xác định các đặc điểm của cộng đồng, trong khi trung bình và độ lệch chuẩn được sử dụng để trả lời các câu hỏi, cùng với hồi quy đa biến và phân tích phương sai một yếu tố.
– Nghiên cứu phát hiện rằng mức độ cam kết của người lao động trong các cơ sở báo chí Jordan đối với đạo đức công việc Hồi giáo là cao. Ngoài ra, có một ảnh hưởng đáng kể về mặt thống kê của việc tuân thủ đạo đức công việc Hồi giáo (sự tử tế và tha thứ khi đối xử với nhân viên và khách hàng, sự tuân thủ đối với những người nắm quyền và tôn trọng đạo đức nghề nghiệp trong hành vi công dân tổ chức của nhân viên trong các tổ chức này. Trong khi đó, không có ảnh hưởng đáng kể về mặt thống kê của việc tuân thủ đạo đức công việc Hồi giáo (sự thành thạo, tư vấn cho người Hồi giáo, ý thức trách nhiệm, công bằng và công lý, sự trung thực và làm việc nhóm) trong hành vi công dân tổ chức.
– Bài báo bao gồm một tập hợp các thành phần của hành vi công dân tổ chức được chiết xuất từ đạo đức công việc Hồi giáo. Những đạo đức này có thể được tích hợp vào hệ thống nguồn nhân lực trong các tổ chức truyền thông và các loại thực thể khác. Những đạo đức này có thể được tích hợp vào bất kỳ bộ quy tắc ứng xử nào, quy định các hành vi mong đợi từ mỗi nhân viên.
– Nhà nghiên cứu đã thực hiện một nghiên cứu so sánh dựa trên tài liệu liên quan. Rõ ràng, các nghiên cứu trước đây đã đề cập đến đạo đức công việc một cách tổng quát, nhưng chúng không đề cập đến các thành phần cụ thể của đạo đức mà nghiên cứu này đã làm). Cũng cần lưu ý rằng tất cả các nghiên cứu trước đây được thực hiện trong bối cảnh nước ngoài, trong khi nghiên cứu này được thực hiện trong bối cảnh Ả Rập. Ngoài ra, có những nghiên cứu về hành vi công dân tổ chức, nhưng nghiên cứu này đã liên kết giữa đạo đức công việc Hồi giáo và hành vi công dân tổ chức.
Mục đích của bài báo này là để báo cáo những phát hiện từ một nghiên cứu thí điểm được thực hiện tại Pakistan, về những rào cản mà người dùng và không phải người dùng ngân hàng Hồi giáo cảm nhận khi lựa chọn các ngân hàng Hồi giáo.
Nghiên cứu này được tiến hành với sự tham gia của hai loại khách hàng ngân hàng, người dùng (khách hàng của các ngân hàng Hồi giáo chỉ và cả ngân hàng Hồi giáo lẫn ngân hàng thương mại) và không phải người dùng (khách hàng của các ngân hàng thương mại chỉ). Nghiên cứu định tính bao gồm phỏng vấn sâu với các nhà quản lý ngân hàng Hồi giáo và hai nhóm tập trung với người dùng và không phải người dùng, tương ứng. Bảng khảo sát mà sau đó đã được thiết kế nhận được 109 phản hồi. Phân tích bao gồm kiểm tra giả thuyết, phân tích yếu tố và phân tích cụm.
Một mạng lưới chi nhánh hẹp, vị trí chi nhánh không thuận tiện và sự cảm nhận rằng “các ngân hàng Hồi giáo không hoàn toàn tuân thủ các nguyên tắc Hồi giáo” đã tạo thành những rào cản cho những người không phải người dùng khi lựa chọn các ngân hàng Hồi giáo. Hơn nữa, “một phán quyết tôn giáo chống lại các ngân hàng Hồi giáo” không được coi là một rào cản quan trọng khi lựa chọn các ngân hàng Hồi giáo.
Nghiên cứu này phác thảo một phương pháp tiếp cận thay thế để nhìn nhận các tiêu chí chọn ngân hàng, bằng cách đo lường mặt trái của đồng xu, tức là những rào cản mà người dùng và không phải người dùng của ngân hàng Hồi giáo cảm nhận khi lựa chọn các ngân hàng Hồi giáo. So với các tài liệu hiện có về chủ đề này, một cách tiếp cận như vậy là rất thú vị và có tiềm năng to lớn vì nó trực tiếp đo lường những rào cản cảm nhận đối với ngân hàng Hồi giáo. Hơn nữa, nghiên cứu thí điểm này cũng là một đóng góp quan trọng cho tài liệu hạn chế về thái độ của người tiêu dùng đối với ngân hàng Hồi giáo tại Pakistan, nơi mà hoạt động của các ngân hàng Hồi giáo vẫn đang trong giai đoạn hình thành.
In the current highly commercialized environment, youth materialism is believed to be elevating. Given the adverse effects of materialism on society in general and on young consumers in particular, the purpose of this research is to gain a better understanding of youth materialism in Egypt along with parental influence in the transmission of materialistic values and hence building up recommendations and programs for impeding this phenomenon.
The empirical investigation was conducted through pursuing a mix of qualitative and quantitative research methods. A deeper understanding of the problem at hand was generated by the qualitative research through conducting in‐depth interviews with children, parents and educators; where the broader target was reached as well as a more comprehensive view was attained by quantitative research through self‐administered surveys for parents and children.
The results showed a positive correlation between parental materialism and child materialism. Concerning the relationships between family communication patterns, parental mediation practices and child materialism, the results indicated that indirect mediation was the strongest predictor for child materialism followed by restrictive mediation, while active mediation was not found as a significant predictor for child materialism.
The purpose of this research is tri‐divided and limited to the following goals: first, capturing cultural differences for the manifestation of materialism in the Egyptian context. Second, examining the extent to which parents contribute and influence the transmission of materialistic values among young consumers. Third, proposing parents as a potential countervailing power against excessive youth materialism.
The results of the study show that necessary steps should be taken by designing programs that involve parents as a potential countervailing power against excessive youth materialism. The results also showed a positive relationship between parents and child materialism. Furthermore, the results from the qualitative research indicated that parents are not really aware of the adverse effects materialism can have on their children. Moreover, the results indicated that there is a positive correlation between socio‐oriented communication and restrictive mediation. At the same time and in line with the proposed conceptual model of the current research, restrictive mediation was found to be the second largest contributor to childhood materialism.
It is suggested that greater transparency about the consequences of materialism could work in favor of altering materialism (Abela). Hence, parents should be aware that excess youth materialism, as previously discussed in the literature, is associated with poor school performance, poor ethical behavior, shoplifting tendencies, unhealthy food consumption, and greater levels of life dissatisfaction.
The research is unique in that it sets the ground for research in the critical area of young consumers in an important emerging market; Egypt. In addition, the novel interdisciplinary approach also contributes to the international literature in terms of both conceptualization and findings.
Bài báo nghiên cứu này nhằm khám phá nhận thức của người tiêu dùng Hồi giáo về mức độ tuân thủ của các doanh nghiệp Malaysia đối với các thực hành tiếp thị Hồi giáo và các chiến lược quảng bá.
Những nhận thức của người tiêu dùng Hồi giáo đã được khảo sát thông qua việc phân phát bảng câu hỏi tự quản cho một mẫu gồm 450 người phản hồi Hồi giáo đang sinh sống tại các thị trấn lớn ở bán đảo Malaysia. Các nội dung trong bảng câu hỏi được lấy từ những hướng dẫn cơ bản có trong
Các kết quả cho thấy, mặc dù có sự nhận thức về các quy định và thực hành này, nhưng không nhiều doanh nghiệp tại Malaysia được coi là đang tuân thủ các nguyên tắc tiếp thị Hồi giáo chung cũng như các thực hành quảng bá Hồi giáo được khuyến nghị. Còn có sự khác biệt đáng kể về ý kiến được người tiêu dùng Hồi giáo bày tỏ do ảnh hưởng từ nền tảng giáo dục tôn giáo của họ và các tiểu bang nơi họ sinh sống.
Có một nhu cầu về việc nghiên cứu nhiều hơn về cách các hướng dẫn Hồi giáo có thể được áp dụng trong tất cả các khía cạnh của hoạt động tiếp thị. Điều này có thể tạo ra nhiều nhận thức hơn cho các doanh nghiệp về những vấn đề và nghĩa vụ liên quan đến các thực hành tiếp thị.
Nghiên cứu này là một nỗ lực hiếm có từ phía các nhà nghiên cứu và học giả tại Malaysia trong việc liên kết các chỉ thị và hướng dẫn Hồi giáo với một lĩnh vực cụ thể như tiếp thị. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về tài chính Hồi giáo và kinh tế học, nhưng lĩnh vực tiếp thị Hồi giáo vẫn còn rõ ràng chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Mục tiêu của bài báo này là nghiên cứu thái độ của các nhà quản lý nhà hàng đối với chứng nhận
Tổng cộng có 33 buổi phỏng vấn được thực hiện với các nhà quản lý nhà hàng tại các nhà hàng được chứng nhận
Các nhà quản lý nhà hàng cảm thấy rằng chứng nhận
Nghiên cứu này rất quan trọng vì đây là bài báo đầu tiên xem xét thái độ của các nhà quản lý nhà hàng liên quan đến chứng nhận
Bài báo này nhằm mục đích nghiên cứu các yếu tố chính tác động đến sự hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ ngân hàng điện tử tại một quốc gia Hồi giáo, Iran.
Các tác giả xác thực một mô hình đo lường để đánh giá sự hài lòng của khách hàng trong chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử dựa trên các mô hình và lý thuyết chất lượng dịch vụ khác nhau như mô hình chấp nhận công nghệ, lý thuyết hành động có lý do và lý thuyết hành vi hoạch định.
Bài báo cung cấp một mô hình với bảy yếu tố trên các lĩnh vực sau: sự tiện lợi, khả năng tiếp cận, độ chính xác, độ an toàn, tính hữu ích, hình ảnh ngân hàng, và thiết kế trang web. Một số yếu tố trong số đó cho thấy sự khác biệt thống kê có ý nghĩa giữa nam và nữ.
Các lĩnh vực này là những yếu tố quyết định đến nhận thức chất lượng của khách hàng trong dịch vụ ngân hàng điện tử và bài báo này đưa ra những hướng đi mới trong nghiên cứu chất lượng dịch vụ, đồng thời cung cấp các hướng đi mới cho các nhà nghiên cứu và quản lý trong việc cải thiện chất lượng dịch vụ.
Tôn giáo Hồi giáo đóng vai trò biểu tượng và văn hóa mạnh mẽ trong việc hình thành sở thích của người tiêu dùng, đặc biệt là ở các quốc gia Hồi giáo. Để nghiên cứu định lượng vai trò này trong các mô hình tiêu dùng của người tiêu dùng Hồi giáo, chúng ta cần một thang đo tôn giáo phù hợp. Tuy nhiên, các thang đo tôn giáo hiện có chủ yếu được phát triển cho các đối tượng đáp ứng Cơ đốc giáo/Do Thái giáo và không thể cung cấp kết quả hợp lệ cho người tiêu dùng Hồi giáo. Nghiên cứu này nhằm giải quyết những thách thức này bằng cách tái cấu trúc khái niệm tôn giáo cho người Hồi giáo và tiến hành một nghiên cứu khám phá để tạo ra một thang đo ban đầu.
Bài báo này đã khởi xướng quá trình phát triển thang đo với một cuộc tổng quan hệ thống về tài liệu Hồi giáo hiện có để đảm bảo rằng chúng tôi sử dụng các danh mục Hồi giáo để xây dựng thang đo. Khi các tác giả có được một kho dữ liệu lớn về các mục, họ đã tham khảo ý kiến các chuyên gia về
Bài báo này nhằm xác định các yếu tố quyết định ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng di động trong số khách hàng ngân hàng Hồi giáo tại Sri Lanka. Nghiên cứu được thực hiện dựa trên Lý thuyết Chấp nhận và Sử dụng Công nghệ Thống nhất (UTAUT 2). Các biến dự đoán bao gồm kỳ vọng về hiệu suất, kỳ vọng về nỗ lực, ảnh hưởng xã hội, điều kiện tạo thuận lợi, động lực hedonistic và thói quen được sử dụng để dự đoán biến ý định hành vi sử dụng. Các biến điều tiết bao gồm độ tuổi, giới tính và kinh nghiệm.
Phương pháp định lượng với khảo sát bằng bảng hỏi được sử dụng. Việc thu thập dữ liệu dựa vào phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi mà các mục được lấy và điều chỉnh từ các tài liệu trước đó. Các phản hồi được ghi nhận sử dụng thang điểm Likert bảy điểm. Dân số nghiên cứu bao gồm khách hàng ngân hàng Hồi giáo tại Sri Lanka. Tổng cộng có 594 bảng hỏi được trả lại, trong đó có 582 bảng hỏi được xem là có thể sử dụng cho phân tích. Phân tích dữ liệu được thực hiện bằng cách sử dụng mô hình phương trình cấu trúc phần mềm SmartPLS 3 với phần bình phương tối thiểu.
Kết quả phân tích cho thấy tác động đáng kể của tất cả các biến đối với ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng di động của khách hàng ngân hàng Hồi giáo cùng với tác động đáng kể của các biến điều tiết như đã giả thuyết ban đầu.
Được coi là nghiên cứu đầu tiên trong bối cảnh khách hàng ngân hàng Hồi giáo tại Sri Lanka, nghiên cứu này cung cấp cho những nhà quyết định những hướng dẫn quý giá khi họ có ý định tái cấu trúc các ứng dụng ngân hàng di động của họ và quảng bá chúng đến công chúng.
Sau khi thực hiện một cuộc tổng quan tài liệu toàn diện, nghiên cứu này được xác định là nỗ lực tiên phong trong việc điều tra ý định sử dụng ngân hàng di động trong số khách hàng ngân hàng Hồi giáo tại Sri Lanka. Do đó, nghiên cứu này đóng góp kiến thức và hiểu biết mới cho cơ sở tài liệu hiện có bằng cách xác nhận khả thi của mô hình UTAUT2 trong việc thúc đẩy việc chấp nhận sử dụng ngân hàng di động trong số khách hàng ngân hàng Hồi giáo tại Sri Lanka.
- 1
- 2
- 3