Emerald
Công bố khoa học tiêu biểu
* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo
So sánh dữ liệu kết quả từ những bệnh nhân nhận điều trị tại các cơ sở khác nhau có thể xác định các phương pháp thực hành khác nhau đáng được xem xét thêm. Bài báo này minh hoạ một phương pháp lập chuẩn với dữ liệu thu thập từ 1,711 bệnh nhân đã nhận liệu pháp nghề nghiệp tại chín quỹ chăm sóc sức khoẻ. Kết quả chi tiết của 288 bệnh nhân cho thấy có sự khác biệt giữa các dịch vụ ở những bệnh nhân được gửi đi nhận liệu pháp nghề nghiệp; họ đã được xuất viện tại những thời điểm khác nhau trong quá trình hồi phục và đạt được những mức độ khác nhau trong suốt thời gian điều trị. Để giải thích các lý do cho sự biến đổi, ý nghĩa cần được thêm vào dữ liệu. Trong khi cơ cấu bệnh nhân là một yếu tố quan trọng và có thể giải thích nhiều sự khác biệt này, dường như việc điều tra các quy trình chăm sóc khác nhau ở các quỹ khác nhau cũng cần được nghiên cứu thêm.
Mã hóa lâm sàng là một quy trình chuyển đổi chính xác các thuật ngữ y khoa viết tay thành mã. Sáng kiến Thanh toán theo Kết quả đã tập trung chú ý vào chất lượng dữ liệu mã hóa lâm sàng, vì tất cả thu nhập từ dịch vụ bệnh nhân nội trú đều được lấy từ dữ liệu lâm sàng đã được mã hóa. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá chất lượng dữ liệu mã hóa lâm sàng bằng cách so sánh thông tin lưu trên hệ thống bộ mã ngữ điệu và thông tin được ghi trong ghi chép lâm sàng của bệnh án.
50 trường hợp cho nghiên cứu này đã được chọn ngẫu nhiên từ danh sách tất cả các trường hợp kết thúc vào tháng 8 năm 2005 trong chuyên ngành Tai-Mũi-Họng tại một bệnh viện giảng dạy.
Chỉ có 17 (34 phần trăm) trường hợp có tóm tắt có cấu trúc trong ghi chép bệnh án. Trong số 50 chẩn đoán chính được ghi lại, có 42 (84 phần trăm) được mã hóa chính xác. Trong số 43 thủ tục chính được ghi lại, có 37 (86 phần trăm) được mã hóa chính xác.
Nghiên cứu này nâng cao nhận thức tốt hơn về tác động của việc mã hóa kém và đưa ra những khuyến nghị có ích cho những người tham gia vào quá trình mã hóa.
Một phương pháp có hệ thống và dựa trên bằng chứng cho việc phát triển dịch vụ mới (gọi là phương pháp “spotlight”) đã được phát triển cùng với các thành viên của một đội ngũ chăm sóc sức khỏe ban đầu mới. Phương pháp này nhằm đảm bảo rằng sự phát triển dịch vụ là có liên quan, dựa trên bằng chứng, được tài liệu hóa và rõ ràng thuộc về đội ngũ thực hành. Tổng cộng có 13 sự phát triển spotlight đã được xác định và tài liệu hóa trong chín tháng đầu tiên. Tất cả đều xem xét tính liên quan đến chính sách địa phương, tất cả đều sử dụng bằng chứng nghiên cứu và/hoặc các nguồn chuyên môn phù hợp được chấp nhận và tất cả đều được thảo luận tại các cuộc họp đội nhóm. Phương pháp spotlight nhanh chóng trở nên dễ tiếp cận và quen thuộc với các thành viên mới trong đội. Nó cung cấp một cấu trúc và ngôn ngữ chung cho việc thảo luận và tài liệu hóa và có thể áp dụng cho nhiều loại phát triển dịch vụ liên quan. Nó cung cấp một phương tiện để chuyển giao nghiên cứu vào thực tiễn và tài liệu giúp thuận lợi cho việc chuyển giao những gì đã học được tới những người khác trong cộng đồng mà sự phát triển và cơ sở bằng chứng của nó là có liên quan.
Các sáng kiến thúc đẩy sức khỏe tại nơi làm việc là một cách hiệu quả để tiếp cận những người trưởng thành, đồng thời tạo ra môi trường làm việc an toàn và lành mạnh hỗ trợ cho sức khỏe cá nhân. Mục đích của dự án này là: tìm hiểu cách các tổ chức/doanh nghiệp định nghĩa sức khỏe tại nơi làm việc; đánh giá sự hỗ trợ và cam kết của nhà tuyển dụng đối với các sáng kiến sức khỏe tại nơi làm việc; đánh giá các yếu tố thuận lợi và rào cản đối với sức khỏe/lành mạnh tại nơi làm việc; và hiểu nhu cầu của nơi làm việc liên quan đến đánh giá và các chỉ số kết quả.
Một quan hệ đối tác cộng đồng, Mạng lưới Sáng kiến Sức khỏe (WIN), đã được thành lập để cung cấp một diễn đàn cho các tổ chức tại Canada Đại Tây Dương chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm về sức khỏe tại nơi làm việc. Các nhóm tập trung đã được tiến hành với các doanh nghiệp/tổ chức ở bốn tỉnh thuộc Canada Đại Tây Dương. Các bản ghi âm đã được phân tích bằng phương pháp phân tích chủ đề.
Các yếu tố cần thiết cho các sáng kiến sức khỏe tại nơi làm việc thành công bao gồm các chương trình tại chỗ, cung cấp các ưu đãi và công nhận cho nhân viên, và cần phải nâng cao nhận thức, hiểu biết và cam kết giữa các nhà quản lý, những người có thể giúp tạo ra một văn hóa hỗ trợ, điều này thúc đẩy sức khỏe nhân viên. Đo lường các kết quả liên quan đến sức khỏe tại nơi làm việc là rất quan trọng.
Thúc đẩy sức khỏe tại nơi làm việc nên bao gồm một cách tiếp cận toàn diện, công nhận những vai trò quan trọng của các yếu tố cá nhân, xã hội và môi trường.
Có cả sự quan tâm và sẵn sàng thực hiện sức khỏe tại nơi làm việc ở Canada Đại Tây Dương. Sức khỏe tại nơi làm việc là trách nhiệm của tất cả – nhân viên cá nhân, nhà tuyển dụng và nơi làm việc, cũng như chính phủ. Tất cả các bên liên quan đều phải tham gia để giúp nhân viên, nơi làm việc và hệ thống y tế đối phó với dân số đang già hóa và những căng thẳng ngày càng tăng tại nơi làm việc và gia đình. Việc thu hút các nhà lãnh đạo là một bước quan trọng trong việc xây dựng một cách tiếp cận tích hợp, toàn diện và bền vững đối với sức khỏe tại nơi làm việc.
Phẫu thuật cắt túi mật bằng nội soi là một trong những phẫu thuật tổng quát phổ biến nhất được thực hiện và có liên quan đến một số biến chứng sau phẫu thuật có khả năng nghiêm trọng. Sự đồng ý được thông báo là rất quan trọng để tránh sự hiểu lầm của bệnh nhân về rủi ro và những vụ kiện tốn kém sau này. Thực hành xin phép tại bệnh viện của tác giả đã được kiểm toán với mục tiêu điều tra chất lượng của việc đồng ý và đánh giá tác động của việc giới thiệu tờ thông tin bệnh nhân chi tiết.
Tổng cộng, 200 mẫu đơn xin phép của bệnh nhân đã được xem xét; 100 mẫu đơn xin phép đã được chọn trước và 100 mẫu sau khi giới thiệu tờ thông tin bệnh nhân tiền phẫu, và đã được phân tích hồi cứu.
Nhân viên tư vấn chỉ thu được 27 phần trăm sự đồng ý; 64 phần trăm sự đồng ý được thực hiện vào buổi sáng của ca phẫu thuật. Các rủi ro phổ biến nhất được đề cập là chảy máu, nhiễm trùng, rủi ro tắc mạch và chuyển sang phẫu thuật mở. Các biến chứng khác được đề cập không nhất quán, với chỉ 2 phần trăm bệnh nhân có bằng chứng tài liệu về việc nhận được tờ thông tin.
Các tác giả cho thấy rằng việc xin phép cho phẫu thuật cắt túi mật bằng nội soi vẫn còn không nhất quán. Việc giới thiệu tờ thông tin đã không cải thiện tài liệu hóa các rủi ro cần thiết cho sự đồng ý thông báo.
The routine use of intrapartum electronic fetal monitoring (EFM) has resulted in an increased burden of operative and vaginal instrumental deliveries for women at low obstetric risk. Such modes of delivery increase maternal mortality and morbidity risks. This study aims to explore midwives' values, attitudes and beliefs when using intrapartum fetal monitoring techniques in clinical practice.
A total of 58 registered midwives across two NHS Trusts in one region in the north of England were interviewed using a qualitative approach.
Midwives attempted to manage the psychological burden of the threat from clinical negligence by using EFM. This meant that some midwives used electronic monitoring regardless of clinical need. Midwives lack confidence in the ability of EFM to accurately detect fetal compromise but are aware that the visual monitoring record is recognised as a valuable piece of legal evidence. The midwives' perceptions of professional self‐efficacy in seeking to avoid a claim in clinical negligence contributed to defensive practice.
Multidisciplinary strategies may be required to overcome barriers to the effective implementation of clinical guidelines where intrapartum fetal monitoring is concerned and Trust audit departments must undertake regular audit cycles in order to ascertain practice compliance with best evidence.
The paper provides information so that midwives' knowledge regarding the limitations of EFM can be improved.
To determine the extent to which psychiatrists of different grades complied with published recommendations regarding referral for psychological treatment of patients suffering from depression.
Clinic letters regarding patients with depression were audited to see whether patients were referred for psychological treatment and, if not, whether a reason was recorded. The results were presented and the audit repeated.
There was little difference in the results of the two audits. Overall, 51 per cent of depressed patients were referred for psychological treatment and 26 per cent were not referred without a reason being given. SHOs were significantly (
SHOs should be encouraged to consider psychological treatment for depression and to record their reasons when not making a referral for this.
This audit has identified a probable reluctance of SHOs to consider referral for psychological treatment and hence suggests that this issue should be specifically addressed as a supervision and training issue.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10