Antimicrobial Agents and Chemotherapy
Công bố khoa học tiêu biểu
* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo
Colistin, administered as its inactive prodrug colistin methanesulfonate (CMS), is often used in multidrug-resistant Gram-negative pulmonary infections. The CMS and colistin pharmacokinetics in plasma and epithelial lining fluid (ELF) following intravenous and pulmonary dosing have not been evaluated in a large-animal model with pulmonary architecture similar to that of humans. Six merino sheep (34 to 43 kg body weight) received an intravenous or pulmonary dose of 4 to 8 mg/kg CMS (sodium) or 2 to 3 mg/kg colistin (sulfate) in a 4-way crossover study. Pulmonary dosing was achieved via jet nebulization through an endotracheal tube cuff. CMS and colistin were quantified in plasma and bronchoalveolar lavage fluid (BALF) samples by high-performance liquid chromatography (HPLC). ELF concentrations were calculated via the urea method. CMS and colistin were comodeled in S-ADAPT. Following intravenous CMS or colistin administration, no concentrations were quantifiable in BALF samples. Elimination clearance was 1.97 liters/h (4% interindividual variability) for CMS (other than conversion to colistin) and 1.08 liters/h (25%) for colistin. On average, 18% of a CMS dose was converted to colistin. Following pulmonary delivery, colistin was not quantifiable in plasma and CMS was detected in only one sheep. Average ELF concentrations (standard deviations [SD]) of formed colistin were 400 (243), 384 (187), and 184 (190) mg/liter at 1, 4, and 24 h after pulmonary CMS administration. The population pharmacokinetic model described well CMS and colistin in plasma and ELF following intravenous and pulmonary administration. Pulmonary dosing provided high ELF and low plasma colistin concentrations, representing a substantial targeting advantage over intravenous administration. Predictions from the pharmacokinetic model indicate that sheep are an advantageous model for translational research.
ELQ-300 is a preclinical candidate that targets the liver and blood stages of
ARG-ANNOT (Chú Thích Gene Kháng Kháng Sinh) là một công cụ tin sinh học mới được phát triển để phát hiện các gene kháng kháng sinh (AR) đã biết và tiềm tàng mới trong bộ gen của vi khuẩn. ARG-ANNOT sử dụng một chương trình BLAST cục bộ trong phần mềm Bio-Edit cho phép người dùng phân tích các chuỗi mà không cần giao diện Web. Tất cả các yếu tố di truyền AR đã được thu thập từ các công trình đã công bố và các nguồn tài nguyên trực tuyến; các chuỗi nucleotide và protein đã được truy xuất từ cơ sở dữ liệu NCBI GenBank. Sau khi xây dựng một cơ sở dữ liệu bao gồm 1,689 gene kháng kháng sinh, phần mềm này đã được thử nghiệm một cách mù bằng cách sử dụng 100 chuỗi ngẫu nhiên được chọn từ cơ sở dữ liệu nhằm xác minh rằng độ nhạy và độ đặc hiệu đạt 100% ngay cả khi có các chuỗi phần. Đặc biệt, kết quả phân tích BLAST thu được bằng cách sử dụng chuỗi gene
Peptit tổng hợp T-20 (enfuvirtide) đại diện cho loại thuốc kháng retrovirus mới đầu tiên cho thấy hiệu lực in vivo bằng cách nhắm vào một bước trong quá trình xâm nhập của virus. T-20 ức chế sự thay đổi cấu hình trong glycoprotein xuyên màng HIV-1 loại 1 (gp41) của virus HIV, sự thay đổi này là cần thiết cho sự hợp nhất giữa HIV-1 và màng tế bào mục tiêu. Giai đoạn thử nghiệm lâm sàng phase I đầu tiên của điều trị T-20 cho bệnh nhân nhiễm HIV đã cung cấp một cơ hội độc đáo để đánh giá sự xuất hiện của virus kháng thuốc in vivo đối với loại thuốc kháng retrovirus mới này. Tất cả bốn bệnh nhân được nhận một liều trung bình T-20 (30 mg hai lần mỗi ngày) đều có sự giảm đáng kể trong tải lượng virus huyết tương trong 10 ngày đầu nhưng có xu hướng tăng lên vào ngày thứ 14, cho thấy có sự chọn lọc cho virus kháng. Virus huyết tương được thu thập từ bệnh nhân tham gia vào tất cả các nhóm liều lượng trong thử nghiệm phase I T-20 đã được phân tích bằng phương pháp giải trình tự quần thể trước và sau điều trị. Mặc dù không có đột biến nào được phát hiện trong một chuỗi 3 axit amin rất bảo tồn (GIV) được biết là quan trọng cho sự hợp nhất tại cơ sở, sau 14 ngày điều trị, virus từ một bệnh nhân trong nhóm liều 30 mg (30-1) đã phát triển một đột biến trong motif này, cụ thể là sự thay thế axit aspartic (D) cho glycine (G) tại vị trí 36. Nhiều dòng
Lĩnh vực khám phá thuốc kháng sinh và theo dõi các yếu tố kháng kháng sinh mới chưa khai thác đầy đủ sức mạnh của cuộc cách mạng về gen. Mặc dù bộ gen đầu tiên được giải mã của các sinh vật sống tự do là của vi khuẩn, nhưng vẫn còn rất ít công cụ sinh tin học chuyên biệt được phát triển để khai thác khối lượng dữ liệu gen ngày càng tăng liên quan đến các tác nhân gây bệnh. Đặc biệt, có rất ít công cụ để nghiên cứu di truyền và gen của kháng kháng sinh cùng với cách mà chúng ảnh hưởng đến quần thể vi khuẩn, sinh thái và lâm sàng. Chúng tôi đã bắt đầu phát triển các công cụ như vậy dưới hình thức Cơ sở dữ liệu Nghiên cứu Kháng thuốc Kháng sinh Toàn diện (CARD;
Hiện nay, có hai hệ thống phân loại cho β-lactamase đang được sử dụng. Phân loại phân tử dựa vào chuỗi axit amin và chia β-lactamase thành các enzym lớp A, C và D sử dụng serine cho quá trình thủy phân β-lactam, và các metalloenzym lớp B cần ion kẽm hai hóa trị cho quá trình thủy phân cơ chất. Hệ thống phân loại chức năng được cập nhật trong tài liệu này dựa trên đề xuất năm 1995 của Bush và các cộng sự (K. Bush, G. A. Jacoby, và A. A. Medeiros, Antimicrob. Agents Chemother. 39:1211-1233, 1995). Hệ thống này xem xét các hồ sơ cơ chất và chất ức chế nhằm mục đích nhóm các enzym theo cách có thể liên quan đến kiểu hình của chúng trong các chủng cách ly lâm sàng. Các nhóm chính thường tương quan với phân loại phân tử cơ bản hơn. Hệ thống đã được cập nhật bao gồm nhóm 1 (lớp C) cephalosporinases; nhóm 2 (các lớp A và D) β-lactamase phổ rộng, chịu ức chế, và β-lactamase phổ mở rộng cùng với carbapenemases chứa serine; và nhóm 3 metallo-β-lactamases. Nhiều tiểu nhóm mới cho mỗi nhóm chính được mô tả, dựa trên các đặc điểm cụ thể của các enzym riêng lẻ. Một danh sách các thuộc tính cũng được đề xuất để mô tả một β-lactamase mới, bao gồm các thuộc tính vi sinh vật cần thiết, hồ sơ cơ chất và chất ức chế, cùng với dữ liệu chuỗi phân tử cung cấp đặc điểm đầy đủ cho một enzym thủy phân β-lactam mới.
The administration of doxycycline prior to bleomycin in mice attenuated pulmonary fibrosis. Bronchoalveolar neutrophil influx and gelatinase activity, but not caseinolytic activity, were attenuated by doxycycline. Established fibrosis was not affected by doxycycline. Thus, doxycycline might be useful for slowing down pulmonary fibrosis by biological activity other than antibacterial activity.
Linezolid là một loại tác nhân kháng khuẩn tiềm năng trong điều trị bệnh lao đa kháng thuốc (MDR-TB), nhưng việc sử dụng nó bị hạn chế do độc tính. Giám sát liều thuốc điều trị (TDM) có thể giúp giảm thiểu độc tính trong khi vẫn duy trì sự phơi nhiễm thuốc thích hợp. Việc lấy mẫu và theo dõi thông qua huyết tương thông thường có thể gặp trở ngại ở nhiều nơi trên thế giới do các vấn đề về logistics mà có thể giải quyết được bằng cách lấy mẫu máu khô (DBS). Mục tiêu của nghiên cứu này là phát triển và xác thức một phương pháp mới để TDM của linezolid ở các bệnh nhân MDR-TB bằng cách sử dụng lấy mẫu DBS. Mẫu huyết tương, DBS từ tĩnh mạch và DBS từ mao quản được thu thập đồng thời từ tám bệnh nhân đang nhận linezolid. Một phương pháp lấy mẫu DBS đã được phát triển và xác nhận lâm sàng bằng cách so sánh DBS với kết quả huyết tương sử dụng hồi quy Passing-Bablok và phân tích Bland-Altman. Nghiên cứu này cho thấy phân tích DBS là có thể tái sản xuất và ổn định. Độ chính xác và giá trị độ chính xác giữa các ngày và trong ngày từ ba lần xác nhận được trình bày dưới dạng độ lệch và hệ số biến thiên (CV) ít hơn 17.2% đối với giới hạn dưới của định lượng và ít hơn 7.8% đối với các mức khác. Phương pháp cho thấy khả năng thu hồi cao khoảng 95% và tác động ma trận thấp dưới 8.7%. Mẫu DBS ổn định ở 37°C trong 2 tháng và ở 50°C trong 1 tuần. Tỷ lệ nồng độ của linezolid trong mẫu DBS so với trong huyết tương là 1.2 (khoảng tin cậy 95% [CI], 1.12 đến 1.27). Sự phơi nhiễm linezolid được tính toán từ các nồng độ mẫu DBS và huyết tương cho thấy sự tương đồng tốt. Kết luận, phân tích DBS của linezolid là một công cụ đầy hứa hẹn để tối ưu hóa điều trị linezolid ở bệnh nhân MDR-TB. Quy trình lấy mẫu dễ dàng và độ ổn định của mẫu cao có thể thuận lợi cho TDM, thậm chí ở những nước kém phát triển có nguồn lực hạn chế và việc lấy mẫu huyết tương thông thường không khả thi.
Critically ill patients are characterized by substantial pathophysiological changes that alter the pharmacokinetics (PK) of hydrophilic antibiotics, including carbapenems. Meropenem is a key antibiotic for multidrug-resistant Gram-negative bacilli, and such pathophysiological alterations can worsen treatment outcomes.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10