Annual Review of Environment and Resources

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
Vượt Ra Ngoài Công Nghệ: Giải Pháp Từ Phía Nhu Cầu Để Giảm Thiểu Biến Đổi Khí Hậu Dịch bởi AI
Annual Review of Environment and Resources - Tập 41 Số 1 - Trang 173-198 - 2016
Felix Creutzig, Blanca Fernandez, Helmut Haberl, Radhika Khosla, Yacob Mulugetta, Karen C. Seto

Tài liệu đánh giá về các giải pháp biến đổi khí hậu cho đến nay đã nhấn mạnh các công nghệ và lựa chọn dựa trên phân tích hiệu quả chi phí. Tuy nhiên, nhiều giải pháp để giảm thiểu biến đổi khí hậu lại không tương thích với những khung phân tích này. Ở đây, chúng tôi xem xét các giải pháp từ phía nhu cầu, một lớp lựa chọn quan trọng trong các biện pháp giảm thiểu mà vượt ra ngoài việc chỉ định công nghệ và phân tích chi phí-lợi ích. Để làm điều này, chúng tôi tổng hợp các giải pháp giảm thiểu từ phía nhu cầu trong các lĩnh vực đô thị, xây dựng, giao thông vận tải, và nông nghiệp. Chúng tôi cũng làm nổi bật bản chất đặc thù của các giải pháp từ phía nhu cầu trong bối cảnh phát triển. Sau đó, chúng tôi thảo luận về các yếu tố phân tích chính để tích hợp các lựa chọn từ phía nhu cầu vào các đánh giá tổng thể về giảm thiểu. Một khung như vậy sẽ bao gồm các giải pháp cơ sở hạ tầng tương tác với việc hình thành sở thích nội sinh. Cả hạ tầng cứng, như môi trường xây dựng, và hạ tầng mềm, như thói quen và chuẩn mực, đều hình thành hành vi và do đó mang lại tiềm năng đáng kể trong việc giảm tổng nhu cầu năng lượng và phát thải khí nhà kính. Chúng tôi kết luận rằng sự thay đổi cơ sở hạ tầng và hành vi hệ thống sẽ có thể là một yếu tố cần thiết trong quá trình chuyển đổi sang một xã hội phát thải carbon thấp.

Lợi ích khí hậu tiềm năng của các đổi mới tiêu dùng kỹ thuật số Dịch bởi AI
Annual Review of Environment and Resources - Tập 45 Số 1 - Trang 113-144 - 2020
Charlie Wilson, Laurie Kerr, Frances Sprei, Emilie Vrain, M. Wilson

Chuyển đổi số đã mở ra một nguồn hàng hóa và dịch vụ mới phong phú với sức hấp dẫn mạnh mẽ của người tiêu dùng cùng với những lợi ích tiềm năng trong việc giảm phát thải. Các ví dụ bao gồm sự di chuyển điện chia sẻ theo yêu cầu, thương mại ngang hàng về điện, thực phẩm và ô tô, cũng như các thiết bị thông minh đáp ứng mạng lưới và hệ thống sưởi. Trong bài đánh giá này, chúng tôi xác định một mẫu minh họa gồm 33 đổi mới tiêu dùng kỹ thuật số thách thức những thói quen tiêu dùng chính thống phát thải cao trong các lĩnh vực di chuyển, thực phẩm, nhà ở và năng lượng. Trên các lĩnh vực này, các đổi mới kỹ thuật số cung cấp cho người tiêu dùng một loạt các đặc điểm hấp dẫn tiềm năng từ quyền kiểm soát, sự lựa chọn và tiện lợi đến độc lập, liên kết và tích hợp với các hệ thống. Chúng tôi sau đó biên soạn các ước tính định lượng về sự thay đổi trong hoạt động, năng lượng, hoặc phát thải do người tiêu dùng áp dụng các đổi mới kỹ thuật số. Tổng hợp mới này của cơ sở bằng chứng cho thấy rõ ràng nhưng không đồng nhất về tiềm năng lợi ích giảm phát thải của các đổi mới tiêu dùng kỹ thuật số. Tuy nhiên, một số ít nghiên cứu cho thấy sự gia tăng phát thải từ các đổi mới cụ thể do tác động cầu kéo hoặc hiệu ứng thay thế cần được quản lý cẩn thận bởi chính sách công. Chúng tôi cũng xem xét cách mà sự áp dụng đồng thời các đổi mới tiêu dùng kỹ thuật số trong các lĩnh vực di chuyển, thực phẩm, nhà ở và năng lượng có thể gây ra những tác động đột phá rộng lớn hơn đến các khung quy định, quy tắc và cơ sở hạ tầng. Chúng tôi kết luận bằng việc lập luận về tầm quan trọng của chính sách công trong việc định hướng chuyển đổi số các hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng theo hướng giảm carbon.

#đổi mới tiêu dùng kỹ thuật số #giảm phát thải #chuyển đổi số #chính sách công #phát thải carbon
TÀI NGUYÊN GEN DI TRONG THỰC PHẨM VÀ NÔNG NGHIỆP: Đánh giá khả năng cung ứng toàn cầu Dịch bởi AI
Annual Review of Environment and Resources - Tập 29 Số 1 - Trang 143-179 - 2004
Cary Fowler, T. Hodgkin

▪ Tóm tắt  Tài nguyên gen thực vật cung cấp nền tảng sinh học cho nông nghiệp và sản xuất thực phẩm. Không quốc gia nào có thể tự chủ về những tài nguyên này. Mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia là rất cao. Những trở ngại chính sách trong việc tiếp cận có thể giảm đi, làm tăng thêm dòng chảy giống cây trồng vốn đã đáng kể. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những câu hỏi nghiêm trọng về sức khỏe và khả năng cung ứng thực tế của các tài nguyên này. Bộ sưu tập trong ngân hàng gen chứa nhiều bản sao không mong muốn, khiến các con số tổng hợp có vẻ lớn hơn thực tế. Thông tin về từng mẫu giống, đặc biệt là những mẫu found in situ, thường rất nghèo nàn, làm giảm tần suất và hiệu quả sử dụng cũng như lợi ích cuối cùng. Mặc dù liên kết giữa bảo tồn và sử dụng hiện vẫn chưa được thiết lập vững chắc, nó cần phải được củng cố.

#tài nguyên gen #nông nghiệp #thực phẩm #tính khả dụng toàn cầu #bảo tồn.
Nước cho Nông nghiệp: Duy trì An ninh Thực phẩm trong bối cảnh Khan hiếm ngày càng gia tăng Dịch bởi AI
Annual Review of Environment and Resources - Tập 34 Số 1 - Trang 205-222 - 2009
Mark W. Rosegrant, Claudia Ringler, Tingju Zhu

Nông nghiệp tưới tiêu là nguồn tiêu thụ nước chính, chiếm khoảng 70% tổng lượng nước ngọt trên toàn thế giới. Sự phát triển của nông nghiệp tưới tiêu đã nâng cao năng suất nông nghiệp và góp phần vào sự ổn định giá cả, tạo điều kiện để nuôi dưỡng dân số thế giới đang gia tăng. Nhu cầu nước ngày càng tăng từ các lĩnh vực phi nông nghiệp, sự thay đổi trong thói quen tiêu dùng thực phẩm, biến đổi khí hậu toàn cầu và những yêu cầu mới cho sản xuất sinh học đang đặt thêm áp lực lên các nguồn nước khan hiếm. Những thách thức về tình trạng khan hiếm nước ngày càng tăng cho nông nghiệp trở nên nghiêm trọng hơn do chi phí phát triển nguồn nước mới tăng lên, sự suy thoái đất, việc cạn kiệt nước ngầm, ô nhiễm nước ngày càng tăng, sự suy thoái của các hệ sinh thái liên quan đến nước, và việc sử dụng lãng phí nguồn nước đã phát triển. Bài báo này thảo luận về vai trò của nước đối với nông nghiệp và an ninh thực phẩm, những thách thức đối mặt với nông nghiệp tưới tiêu, và các chính sách, thể chế, cũng như các khoản đầu tư cần thiết để đảm bảo quyền truy cập đầy đủ vào nước cho thực phẩm trong hiện tại và tương lai.

#nước #nông nghiệp #an ninh thực phẩm #khan hiếm nước #chính sách nước
Loài xâm lấn, Biến đổi Môi trường và Quản lý, và Sức khỏe Dịch bởi AI
Annual Review of Environment and Resources - Tập 35 Số 1 - Trang 25-55 - 2010
Petr Pyšek, David M. Richardson

Các loài xâm lấn là một yếu tố chính của biến đổi toàn cầu và đang góp phần vào việc mất đa dạng sinh học, suy thoái hệ sinh thái, và suy giảm dịch vụ hệ sinh thái trên toàn cầu. Nghiên cứu hiện đang chiếu sáng những hậu quả sinh thái và kinh tế của các cuộc xâm lấn. Những cách tiếp cận mới đang xuất hiện để mô tả và đánh giá tác động của các loài xâm lấn, cũng như để chuyển đổi những tác động này thành các thuật ngữ tài chính. Những tác hại của các cuộc xâm lấn hiện nay đã được công nhận rộng rãi, và các chương trình đa quy mô đã được triển khai ở nhiều nơi trên thế giới nhằm giảm thiểu các tác động hiện tại và tương lai. Đã có sự gia tăng trong nghiên cứu khoa học nhằm hướng dẫn các can thiệp quản lý. Trong số các hoạt động đang được chú ý nhất và có tiềm năng cao trong việc giảm thiểu vấn đề là đánh giá rủi ro, quản lý các con đường xâm lấn và tác nhân lây truyền, phát hiện sớm, phản ứng nhanh, và những cách tiếp cận mới để giảm thiểu và phục hồi. Các quy trình sàng lọc nhằm giảm thiểu các lần xâm lấn mới đang ngày càng chính xác và đã cho thấy tính hiệu quả về chi phí.

Công lý môi trường Dịch bởi AI
Annual Review of Environment and Resources - Tập 34 Số 1 - Trang 405-430 - 2009
Paul Mohai, David N. Pellow, J. Timmons Roberts

Bài báo này đánh giá hai thập kỷ những tuyên bố của các học giả rằng sự tiếp xúc với ô nhiễm và các rủi ro môi trường khác được phân phối không đồng đều theo chủng tộc và tầng lớp, kiểm tra các nghiên cứu tình huống về các phong trào xã hội vì công lý môi trường và lịch sử cũng như chính trị của việc xây dựng chính sách công lý môi trường tại Hoa Kỳ, đồng thời mô tả vấn đề mới nổi về công lý khí hậu toàn cầu. Các tác giả tham gia vào việc thảo luận về tài liệu gây tranh cãi về cách đo lường và tài liệu hóa sự bất công môi trường một cách định lượng, đặc biệt là những vấn đề phức tạp liên quan đến việc có các loại và khu vực dữ liệu rất khác nhau (chẳng hạn như mã bưu chính, khu vực điều tra dân số hoặc vòng tròn đồng tâm) xung quanh các cơ sở ô nhiễm hoặc các cộng đồng có nguy cơ bị phơi nhiễm. Bài báo cũng xem xét giá trị của các quan điểm từ lý thuyết chủng tộc phê phán và các nghiên cứu dân tộc để làm rõ những hiện tượng xã hội này. Cuối cùng, bài báo kết thúc với một cuộc thảo luận về toàn cầu hóa phong trào công lý môi trường, diễn ngôn và các vấn đề, cũng như một số tác động chính sách của việc tìm kiếm và hiểu biết về công lý môi trường. Một đặc điểm độc đáo của bài đánh giá này là sự rộng lớn và đa dạng của nó, xét về các cách tiếp cận khác nhau của ba đồng tác giả.

VAI TRÒ CỦA CÁC KHU BẢO TỒN TRONG VIỆC BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ DUY TRÌ SINH KẾ ĐỊA PHƯƠNG Dịch bởi AI
Annual Review of Environment and Resources - Tập 30 Số 1 - Trang 219-252 - 2005
Lisa Naughton‐Treves, Margaret B. Holland, Katrina Brandon

▪ Tóm tắt  Hệ thống các khu bảo tồn trên thế giới đã phát triển một cách nhanh chóng trong 25 năm qua, đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển, nơi có sự đa dạng sinh học lớn nhất. Đồng thời, nhiệm vụ của các khu bảo tồn đã mở rộng từ việc bảo tồn đa dạng sinh học sang cải thiện phúc lợi con người. Kết quả là sự dịch chuyển theo hướng các khu bảo tồn cho phép sử dụng tài nguyên địa phương. Với nhiều mục đích của các khu bảo tồn, việc đo lường hiệu quả là rất khó khăn. Đánh giá của chúng tôi về 49 khu bảo tồn nhiệt đới cho thấy rằng các công viên thường hiệu quả trong việc giảm thiểu nạn phá rừng trong ranh giới của chúng. Nhưng nạn phá rừng ở các khu vực xung quanh đang cô lập các khu bảo tồn. Nhiều sáng kiến hiện nay nhằm liên kết các khu bảo tồn với phát triển kinh tế xã hội địa phương. Một số sáng kiến này đã thành công, nhưng nhìn chung, cần phải điều chỉnh kỳ vọng về khả năng của các khu bảo tồn trong việc giảm nghèo. Ngoài ra, cũng cần chú ý hơn đến bối cảnh chính sách rộng lớn hơn liên quan đến tổn thất đa dạng sinh học, nghèo đói và sử dụng đất không bền vững ở các quốc gia đang phát triển.

Tính Chất và Giá Trị của Các Dịch Vụ Hệ Sinh Thái: Một Tổng Quan Nhấn Mạnh Dịch Vụ Thủy Văn Dịch bởi AI
Annual Review of Environment and Resources - Tập 32 Số 1 - Trang 67-98 - 2007
Kate A. Brauman, Gretchen C. Daily, Thomas Kaeo Duarte, Harold A. Mooney

Các dịch vụ hệ sinh thái, những lợi ích mà con người thu được từ các hệ sinh thái, là một ống kính mạnh mẽ giúp hiểu mối quan hệ của con người với môi trường và thiết kế chính sách môi trường. Việc bao gồm rõ ràng các bên thụ hưởng làm cho giá trị trở nên nội tại đối với các dịch vụ hệ sinh thái; dù những giá trị đó có được định giá hay không, khung dịch vụ hệ sinh thái cung cấp một cách để đánh giá các sự đánh đổi giữa các kịch bản sử dụng tài nguyên thay thế và sự biến đổi của đất đai cũng như cảnh quan biển. Chúng tôi cung cấp một cái nhìn tổng quan về các chức năng hệ sinh thái có trách nhiệm trong việc sản xuất các dịch vụ thủy văn trên cạn và sử dụng bối cảnh này để đặt ra một kế hoạch cho việc đánh giá dịch vụ hệ sinh thái tổng quát hơn. Các dịch vụ hệ sinh thái khác được đề cập trong cuộc thảo luận của chúng tôi về quy mô và sự đánh đổi. Chúng tôi tổng hợp các công cụ định giá và chính sách hữu ích cho việc bảo vệ dịch vụ hệ sinh thái và cung cấp một số ví dụ về quản lý đất đai sử dụng những công cụ này. Trong suốt bài báo, chúng tôi nhấn mạnh các hướng nghiên cứu để thúc đẩy khung dịch vụ hệ sinh thái như một cơ sở hoạt động cho các quyết định chính sách.

#dịch vụ hệ sinh thái #giá trị #quản lý tài nguyên #dịch vụ thủy văn #chính sách môi trường
Quản lý Môi trường Dịch bởi AI
Annual Review of Environment and Resources - Tập 31 Số 1 - Trang 297-325 - 2006
Maria Carmen Lemos, Arun Agrawal

▪ Tóm tắt  Chương này xem xét tài liệu liên quan đến quản lý môi trường trong bốn lĩnh vực học thuật: toàn cầu hóa, phân cấp, quản lý dựa trên các động lực thị trường và cá nhân, và quản lý theo quy mô phối hợp. Nó lập luận rằng, với sự phức tạp và tính đa dạng quy mô của nhiều vấn đề môi trường cấp bách nhất, các cuộc tranh luận thông thường tập trung vào các phương thức quản lý thuần túy – nơi các tác nhân nhà nước hoặc thị trường đóng vai trò chính – không đáp ứng đủ năng lực cần thiết để xử lý chúng. Bài đánh giá làm nổi bật các phương thức quản lý lai nổi lên qua các ranh giới nhà nước-thị trường-cộng đồng: quản lý cộng đồng, quan hệ đối tác công-tư và quan hệ đối tác xã hội-tư nhân. Nó xem xét tiềm năng đáng kể mà chúng nắm giữ cho các hệ thống xã hội và tự nhiên kết hợp phục hồi từ sự suy thoái và thay đổi môi trường, đồng thời khám phá một số vấn đề quan trọng mà các hình thức quản lý môi trường lai cũng phải đối mặt.

Ô nhiễm nước toàn cầu và sức khỏe con người Dịch bởi AI
Annual Review of Environment and Resources - Tập 35 Số 1 - Trang 109-136 - 2010
René P. Schwarzenbach, Thomas Egli, Thomas B. Hofstetter, Urs von Gunten, Bernhard Wehrli

Các vấn đề về chất lượng nước đang trở thành một thách thức lớn mà nhân loại phải đối mặt trong thế kỷ hai mươi mốt. Trong bài viết này, chúng tôi xem xét các nhóm ô nhiễm nước chính, ảnh hưởng của chúng đến sức khỏe con người, và các phương pháp để giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước ngọt. Chúng tôi nhấn mạnh việc ô nhiễm hóa học, đặc biệt là các chất ô nhiễm vi mô vô cơ và hữu cơ bao gồm kim loại độc hại và bán kim loại cũng như một loạt các hóa chất tổng hợp hữu cơ. Một số khía cạnh của các bệnh truyền qua nước và sự cần thiết cấp bách về cải thiện vệ sinh ở các nước đang phát triển cũng được thảo luận. Bài tổng quan đề cập đến những tiến bộ khoa học hiện tại để đối phó với sự đa dạng lớn của các chất ô nhiễm. Nó được tổ chức theo các quy mô không gian và thời gian khác nhau của ô nhiễm nước toàn cầu. Các chất ô nhiễm hữu cơ bền vững (POPs) đã tác động đến hệ thống nước trên quy mô toàn cầu hơn năm thập kỷ; trong khoảng thời gian đó, các chất ô nhiễm địa chất, các hoạt động khai thác mỏ và các bãi rác nguy hại đã trở thành nguồn gây ô nhiễm nước vùng và địa phương lâu dài nhất. Các hóa chất nông nghiệp và nguồn thải nước có ảnh hưởng ngắn hạn hơn đến quy mô từ vùng đến địa phương.

Tổng số: 46   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5