Acta Psychiatrica Scandinavica

SCIE-ISI SSCI-ISI SCOPUS (1926-1949,1953-2023)

  1600-0447

  0001-690X

  Anh Quốc

Cơ quản chủ quản:  WILEY , Wiley-Blackwell Publishing Ltd

Lĩnh vực:
Psychiatry and Mental Health

Các bài báo tiêu biểu

Thang Đo Lo Âu và Trầm Cảm Bệnh Viện Dịch bởi AI
Tập 67 Số 6 - Trang 361-370 - 1983
A. S. Zigmond, R. P. Snaith
TÓM TẮT– Một thang tự đánh giá đã được phát triển và được chứng minh là công cụ đáng tin cậy để phát hiện trạng thái trầm cảm và lo âu trong bối cảnh phòng khám bệnh nhân ngoại trú tại bệnh viện. Các thang điểm lo âu và trầm cảm cũng là những phương tiện đo lường hợp lệ của mức độ nghiêm trọng của rối loạn cảm xúc. Người ta đề xuất rằng việc đưa các thang điểm này vào thực hành bệnh viện chung sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nhiệm vụ lớn là phát hiện và quản lý rối loạn cảm xúc ở các bệnh nhân đang được thăm khám và điều trị tại các khoa nội và ngoại khoa.
#Thang tự đánh giá #Lo âu #Trầm cảm #Rối loạn cảm xúc #Bệnh viện #Nhân sự y tế #Khám bệnh nhân ngoại trú #Mức độ nghiêm trọng #Phòng khám
The UKU side effect rating scale: A new comprehensive rating scale for psychotropic drugs and a cross‐sectional study of side effects in neuroleptic‐treated patients
Tập 76 Số s334 - Trang 1-100 - 1987
Ole Christian Lingjærde, Ulf Ahlfors, Per Bech, S. J. Dencker, K. Elgen
Tỷ lệ tiến triển từ suy giảm nhận thức nhẹ đến sa sút trí tuệ – phân tích tổng hợp 41 nghiên cứu đoàn hệ khởi đầu mạnh mẽ Dịch bởi AI
Tập 119 Số 4 - Trang 252-265 - 2009
Alex J. Mitchell, M. Shiri‐Feshki

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ rủi ro phát triển sa sút trí tuệ ở những người có triệu chứng suy giảm nhận thức nhẹ (MCI).

Phương pháp: Phân tích tổng hợp các nghiên cứu đoàn hệ khởi đầu.

Kết quả: Đã xác định 41 nghiên cứu đoàn hệ mạnh mẽ. Để tránh sự không đồng nhất, các nghiên cứu lâm sàng, nghiên cứu dân số và thử nghiệm lâm sàng được phân tích riêng biệt. Sử dụng định nghĩa MCI của Mayo tại thời điểm đầu vào và điều chỉnh theo kích thước mẫu, tỷ lệ cộng dồn những người tiến triển thành sa sút trí tuệ, bệnh Alzheimer (AD) và sa sút trí tuệ mạch máu (VaD) tương ứng là 39,2%, 33,6% và 6,2% tại các cơ sở chuyên khoa, và 21,9%, 28,9% và 5,2% trong các nghiên cứu dân số. Tỷ lệ chuyển đổi hàng năm đã điều chỉnh (ACR) từ MCI theo định nghĩa của Mayo sang sa sút trí tuệ, AD và VaD lần lượt là 9,6%, 8,1% và 1,9% tại các cơ sở lâm sàng chuyên khoa và 4,9%, 6,8% và 1,6% trong các nghiên cứu cộng đồng. Các con số từ MCI không theo định nghĩa của Mayo và các thử nghiệm lâm sàng cũng được báo cáo.

#suy giảm nhận thức nhẹ #sa sút trí tuệ #phân tích tổng hợp #nghiên cứu đoàn hệ
Chấn thương thời thơ ấu, tâm thần phân liệt và tâm thần: một bài tổng quan với những hàm ý lý thuyết và lâm sàng Dịch bởi AI
Tập 112 Số 5 - Trang 330-350 - 2005
John Read, Jim van Os, Anthony P. Morrison, Colin A. Ross

Mục tiêu:  Tổng quan nghiên cứu về mối quan hệ giữa chấn thương thời thơ ấu và tâm thần phân liệt, đồng thời thảo luận về các hàm ý lý thuyết và lâm sàng.

Phương pháp:  Các nghiên cứu liên quan và bài tổng quan trước đó được xác định thông qua tìm kiếm tài liệu bằng máy tính.

Kết quả:  Các triệu chứng được coi là chỉ dấu của tâm thần và tâm thần phân liệt, đặc biệt là ảo giác, có liên quan ít nhất cũng mạnh như nhiều vấn đề sức khỏe tâm thần khác đối với tình trạng lạm dụng và bỏ mặc trong thời thơ ấu. Các nghiên cứu gần đây trên quy mô lớn đối với dân số chung cho thấy mối quan hệ này có tính chất nguyên nhân, với mối quan hệ liều-lượng.

Kết luận:  Một số cơ chế tâm lý và sinh học mà qua đó chấn thương thời thơ ấu làm tăng nguy cơ tâm thần cần được chú ý. Việc tích hợp các cấp độ phân tích khác nhau có thể kích thích một mô hình tâm thần tổng hợp sinh - tâm lý - xã hội thực sự hơn so với mô hình hiện tại. Các hàm ý lâm sàng bao gồm việc cần thiết phải đào tạo nhân viên trong việc hỏi về tình trạng lạm dụng và cần cung cấp các liệu pháp tâm lý xã hội phù hợp cho những bệnh nhân bị lạm dụng hoặc bỏ rơi khi còn nhỏ. Các vấn đề phòng ngừa cũng được xác định.

#chấn thương thời thơ ấu #tâm thần phân liệt #tâm thần #ảo giác #sức khỏe tâm thần
Sự thay đổi cytokine và chemokine ngoại vi trong trầm cảm: phân tích tổng hợp 82 nghiên cứu Dịch bởi AI
Tập 135 Số 5 - Trang 373-387 - 2017
Cristiano A. Köhler, Thiago Holanda Freitas, Michaël Maes, Nayanna Quezado de Andrade, C. S. Liu, Brisa S. Fernandes, Brendon Stubbs, Marco Solmi, Nicola Veronese, Nathan Herrmann, Charles L. Raison, Brian J. Miller, Krista L. Lanctôt, André F. Carvalho
Mục tiêu

Thực hiện một đánh giá có hệ thống và phân tích tổng hợp các nghiên cứu đo lường mức độ cytokine và chemokine ở những người mắc rối loạn trầm cảm lớn (MDD) so với các đối chứng khỏe mạnh (HCs).

Phương pháp

Các cơ sở dữ liệu PubMed/MEDLINE, EMBASE, và PsycINFO đã được tìm kiếm cho đến ngày 30 tháng 5 năm 2016. Kích thước hiệu ứng được ước lượng bằng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên.

Kết quả

Hai mươi hai nghiên cứu với 3212 người tham gia có MDD và 2798 HCs đã đáp ứng tiêu chí bao gồm. Mức độ ngoại vi của interleukin-6 (IL‐6), yếu tố hoại tử khối u (TNF)‐alpha, IL‐10, thụ thể hòa tan IL‐2, ligand chemokine C-C 2, IL‐13, IL‐18, IL‐12, đối kháng thụ thể IL‐1 và thụ thể hòa tan TNF 2 đã tăng cao ở bệnh nhân với MDD so với HCs, trong khi mức độ interferon-gamma thấp hơn ở MDD (Hedge's g = −0.477, P = 0.043). Mức độ IL‐1β, IL‐2, IL‐4, IL‐8, thụ thể hòa tan IL‐6 (sIL‐6R), IL‐5, CCL‐3, IL‐17 và yếu tố tăng trưởng biến đổi‐beta 1 không bị thay đổi đáng kể ở những cá nhân mắc MDD so với HCs. Độ đồng nhất lớn (I2: 51.6–97.7%), và các nguồn gốc của độ đồng nhất đã được khám phá (ví dụ, tuổi, tình trạng hút thuốc và chỉ số khối cơ thể).

Kết luận

Kết quả của chúng tôi mô tả thêm một hồ sơ cytokine/chemokine liên quan đến MDD. Các nghiên cứu trong tương lai là cần thiết để làm rõ thêm nguồn gốc của độ đồng nhất, cũng như các cytokine sinh học được tiết ra bởi các tế bào miễn dịch khác.

Các sự kiện chấn thương và rối loạn stress sau sang chấn trong cộng đồng: Tỷ lệ, yếu tố rủi ro và đồng bệnh Dịch bởi AI
Tập 101 Số 1 - Trang 46-59 - 2000
Axel Perkonigg, Ronald C. Kessler, S. Storz, Hans‐Ulrich Wittchen

Mục tiêu: Tỷ lệ gặp phải sự kiện chấn thương và rối loạn stress sau sang chấn theo DSM-IV trong suốt đời và trong vòng 12 tháng được nghiên cứu trên một mẫu cộng đồng tiêu biểu (n=3021, độ tuổi 14–24).

Phương pháp: Các sự kiện chấn thương và PTSD được đánh giá bằng Phỏng vấn Chẩn đoán Quốc tế Munich (CIDI).

Kết quả: Mặc dù 26% nam giới và 17.7% nữ giới báo cáo đã trải qua ít nhất một sự kiện chấn thương, chỉ có một số ít đủ tiêu chuẩn để chẩn đoán PTSD hoàn chỉnh (1% nam giới và 2.2% nữ giới). Các sự kiện chấn thương và PTSD có mối liên hệ mạnh mẽ với tất cả các rối loạn tâm thần khác được kiểm tra. PTSD xuất hiện như là một rối loạn chính và một rối loạn thứ phát.

Kết luận: Tỷ lệ PTSD trong mẫu thanh thiếu niên người Đức này thấp hơn đáng kể so với những gì được báo cáo trong các nghiên cứu trước đó. Tuy nhiên, xác suất có điều kiện cho PTSD sau khi trải qua chấn thương, các yếu tố rủi ro và mẫu đồng bệnh khá tương tự. Các sự kiện chấn thương và PTSD hoàn chỉnh có thể làm gia tăng nguy cơ mắc phải các rối loạn khác và ngược lại.

Catatonia. I. Thang đo và kiểm tra tiêu chuẩn hóa Dịch bởi AI
Tập 93 Số 2 - Trang 129-136 - 1996
George Bush, Max Fink, Georgios Petrides, Frank Dowling, Andrew Francis

Để tạo điều kiện cho việc mô tả hệ thống các dấu hiệu hôn mê, chúng tôi đã phát triển một bài kiểm tra đánh giá hôn mê, thang đo và công cụ sàng lọc. Chúng tôi đã xây dựng một thang đo 23 mục và một công cụ sàng lọc rút gọn 14 mục sử dụng các định nghĩa hoạt động của các dấu hiệu liên quan đến hôn mê từ các nguồn đã công bố. Độ tin cậy giữa các nhà đánh giá đã được kiểm tra trong 44 lần đánh giá đồng thời của 28 trường hợp được xác định bởi sự hiện diện của ≥2 dấu hiệu trên công cụ sàng lọc 14 mục. Độ tin cậy giữa các nhà đánh giá cho tổng điểm trên thang đo là 0.93, và tỷ lệ đồng ý trung bình của các mục là 88.2% (SD 9.9). Độ tin cậy giữa các nhà đánh giá cho tổng điểm trên công cụ sàng lọc là 0.95, và tỷ lệ đồng ý trung bình của các mục là 92.7% (SD 4.9). Sự đồng thuận chẩn đoán rất cao dựa trên các tiêu chí cho hôn mê được đưa ra bởi các tác giả khác. Bảy phần trăm (15/215) bệnh nhân nhập viện liên tục vào một cơ sở tâm thần học học thuật đạt tiêu chuẩn cho hôn mê. Kết luận rằng hôn mê là một hội chứng thần kinh tâm lý đặc biệt, có tần suất trung bình. Thang đo và công cụ sàng lọc có độ tin cậy và tính hợp lệ. Việc sử dụng chúng tạo điều kiện cho việc chẩn đoán, lập kế hoạch điều trị và so sánh giữa các nghiên cứu.

#hôn mê #hội chứng thần kinh tâm lý #thang đo #công cụ sàng lọc
Đánh giá hệ thống các nghiên cứu xác thực Thang đo Trầm cảm Hậu sản Edinburgh ở phụ nữ trước và sau sinh Dịch bởi AI
Tập 119 Số 5 - Trang 350-364 - 2009
Jack Gibson, Kirstie McKenzie‐McHarg, Judy Shakespeare, Jonathan Price, Richard Gray

Mục tiêu:  Thang đo Trầm cảm Hậu sản Edinburgh (EPDS) là công cụ sàng lọc được sử dụng rộng rãi nhất để phát hiện trầm cảm sau sinh (PPD). Chúng tôi đã tiến hành đánh giá hệ thống các chứng cứ đã công bố về tính hợp lệ của nó trong việc phát hiện PPD và trầm cảm trước sinh (APD) tính đến tháng 7 năm 2008.

Phương pháp:  Đánh giá hệ thống các nghiên cứu xác thực của EPDS từ năm 1987 đến 2008. Các điểm cắt 9/10 cho khả năng có PPD, 12/13 cho khả năng có PPD và 14/15 cho APD được sử dụng trong đánh giá.

Kết quả:  Ba mươi bảy nghiên cứu đáp ứng tiêu chí đưa vào. Độ nhạy và độ đặc hiệu của các điểm cắt cho thấy sự biến động rõ rệt giữa các nghiên cứu khác nhau. Kết quả độ nhạy dao động từ 34 đến 100% và độ đặc hiệu từ 44 đến 100%. Tỷ lệ dương tính có thể dao động từ 1,61 đến 78.

Kết luận:  Sự biến động giữa các phát hiện nghiên cứu có thể do sự khác biệt trong phương pháp nghiên cứu, ngôn ngữ và phỏng vấn/chỉ tiêu chẩn đoán được sử dụng. Do đó, kết quả của các nghiên cứu khác nhau có thể không thể so sánh trực tiếp và EPDS có thể không phải là một công cụ sàng lọc hợp lệ như nhau trong tất cả các thiết lập và bối cảnh.

#Trầm cảm #Thang đo Trầm cảm Hậu sản #Phụ nữ #Kiểm tra tính hợp lệ #Nghiên cứu hệ thống #Trầm cảm sau sinh.
Risk of dementia and mild cognitive impairment in older people with subjective memory complaints: meta-analysis
Tập 130 Số 6 - Trang 439-451 - 2014
Alex J. Mitchell, Helen Beaumont, Denisha Ferguson, Motahare Yadegarfar, Brendon Stubbs
Những nỗ lực tự tử ở Châu Âu: tỷ lệ, xu hướng và đặc điểm sociodemographic của những người có ý định tự tử trong giai đoạn 1989-1992. Kết quả từ Nghiên cứu Đa trung tâm của WHO/EURO về Parasuicide Dịch bởi AI
Tập 93 Số 5 - Trang 327-338 - 1996
Armin Schmidtke, U. Bille‐Brahe, Diego DeLeo, Ad Kerkhof, Tore Bjerke, P. Crepef, Christian Häring, Keith Hawton, Jouko Lönnqvist, K. Michel, Xavier Pommereau, Querejeta, I. Phillipe, E. Salander‐Renberg, B. Temesváry, Danuta Wasserman, Susanne Fricke, Bettina Weinacker, J. G. Sampaio‐Faria

Schmidtke A, Bille‐Brahe U, DeLeo D, Kerkhof A, Bjerke T, Crepet P, Haring C, Hawton K, Lönnqvist J, Michel K, Pommereau X, Querejeta I, Phillipe I, Salander‐Renberg E, Temesvary B, Wasserman D, Fricke S, Weinacker B, Sampaio‐Faria JG. Những nỗ lực tự tử ở Châu Âu: tỷ lệ, xu hướng và các đặc điểm sociodemographic của những người có ý định tự tử trong giai đoạn 1989–1992. Kết quả từ Nghiên cứu Đa trung tâm của WHO/EURO về Parasuicide.

Acta Psychiatr Scand 1996: 93: 327–338. © Munksgaard 1996.

Dự án Đa trung tâm của Tổ chức Y tế Thế giới/EURO về Parasuicide là một phần trong hành động thực hiện mục tiêu 12 của chương trình WHO, ‘Sức khỏe cho mọi người vào năm 2000’, cho khu vực Châu Âu. Mười sáu trung tâm ở 13 quốc gia Châu Âu tham gia vào khía cạnh giám sát của dự án, trong đó đánh giá các xu hướng về dịch tễ học của các nỗ lực tự tử. Tỷ lệ nỗ lực tự tử tiêu chuẩn tuổi trung bình cao nhất ở nam giới được tìm thấy tại Helsinki, Phần Lan (314/100000), và tỷ lệ thấp nhất (45/100000) là ở Guipuzcoa, Tây Ban Nha, đại diện cho sự khác biệt gấp bảy lần. Tỷ lệ nỗ lực tự tử tiêu chuẩn tuổi trung bình cao nhất ở phụ nữ được tìm thấy tại Cergy‐Pontoise, Pháp (462/100000), và tỷ lệ thấp nhất (69/100000) lại là ở Guipuzcoa, Tây Ban Nha. Chỉ với một ngoại lệ (Helsinki), tỷ lệ nỗ lực tự tử dựa trên cá nhân cao hơn ở phụ nữ so với nam giới. Ở phần lớn các trung tâm, tỷ lệ dựa trên cá nhân cao nhất được tìm thấy ở những nhóm tuổi trẻ hơn. Tỷ lệ ở những người từ 55 tuổi trở lên thường là thấp nhất. Trong phần lớn các trung tâm, tỷ lệ ở những cá nhân từ 15 tuổi trở lên đã giảm giữa năm 1989 và 1992. Các phương pháp được sử dụng chủ yếu là ‘nhẹ’ (ngộ độc) hoặc cắt. Hơn 50% những người nỗ lực tự tử đã thực hiện nhiều hơn một lần nỗ lực, và gần 20% những lần nỗ lực thứ hai đã xảy ra trong vòng 12 tháng sau lần nỗ lực đầu tiên. So với dân số chung, những người nỗ lực tự tử thường thuộc các nhóm xã hội liên quan đến sự bất ổn xã hội và nghèo đói.