Sonde foley là gì? Các công bố khoa học về Sonde foley

Ống thông Foley là một thiết bị y tế quan trọng dùng để dẫn lưu nước tiểu từ bàng quang, đặc biệt hữu ích cho bệnh nhân không thể tự đi tiểu. Cấu tạo của nó gồm một ống dài, bóng bay nhỏ và valve để đảm bảo cố định và thao tác dễ dàng. Ống thông thường sử dụng sau phẫu thuật hoặc khi cần thu thập mẫu nước tiểu xét nghiệm. Quy trình đặt đòi hỏi kỹ năng và tuân thủ quy tắc vô trùng để tránh rủi ro như nhiễm trùng đường tiết niệu hay tổn thương nội tạng. Sử dụng đúng cách giúp quản lý tốt các vấn đề tiết niệu.

Giới thiệu về Ống thông Foley

Ống thông Foley, một loại ống thông tiểu, được sử dụng phổ biến trong y học để dẫn lưu nước tiểu từ bàng quang của bệnh nhân. Được đặt tên theo nhà phát minh Frederic Foley, ống thông này là một công cụ thiết yếu trong các quy trình y tế, đặc biệt ở những bệnh nhân không thể tự đi tiểu.

Cấu tạo của Ống thông Foley

Ống thông Foley bao gồm ba phần chính: một ống dài, một bóng bay nhỏ và một valve. Ống dài được làm từ các chất liệu như latex hoặc silicone, giúp dễ dàng đưa vào trong cơ thể. Bóng bay nhỏ nằm ở đầu ống và được bơm nước hoặc không khí để giữ ống trong bàng quang sau khi đặt vào. Valve được sử dụng để bơm và tháo bóng bay khi cần thiết.

Ứng dụng của Ống thông Foley

Ống thông Foley được sử dụng trong nhiều trường hợp khác nhau như bệnh nhân sau phẫu thuật, bệnh nhân bất động lâu ngày hoặc những người gặp khó khăn trong việc tự đi tiểu. Ngoài ra, nó cũng được sử dụng trong quá trình thu thập mẫu nước tiểu để xét nghiệm, hoặc để giảm áp lực trong bàng quang khi cần thiết.

Quy trình đặt Ống thông Foley

Quy trình đặt ống thông Foley yêu cầu kỹ năng chuyên môn và tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc vô trùng. Trước tiên, bề mặt được vệ sinh kỹ càng. Sau đó, thuốc gây tê có thể được sử dụng để giảm khó chịu cho bệnh nhân. Ống được nhẹ nhàng đưa qua niệu đạo vào bàng quang, sau đó bóng bay sẽ được bơm để cố định vị trí của ống.

Rủi ro và Biến chứng

Như với bất kỳ quy trình y khoa nào, việc sử dụng ống thông Foley có thể mang theo một số rủi ro và biến chứng. Nhiễm trùng đường tiết niệu là một trong những nguy cơ phổ biến nhất do vi khuẩn có thể xâm nhập qua ống thông. Ngoài ra, có thể xảy ra tắc nghẽn ống dẫn nước tiểu hoặc tổn thương các cơ quan nội tạng nếu ống không được đặt đúng cách.

Kết luận

Ống thông Foley là một thiết bị y tế quan trọng trong việc quản lý và điều trị các vấn đề về tiết niệu. Tuy nhiên, việc sử dụng nó cần được thực hiện cẩn thận và dưới sự giám sát của nhân viên y tế có chuyên môn để giảm thiểu các nguy cơ biến chứng và đảm bảo an toàn cho bệnh nhân.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sonde foley":

Nghiên cứu hiệu quả đặt bóng chèn lòng tử cung bằng sonde Foley điều trị băng huyết sau sinh
Tạp chí Phụ Sản - Tập 17 Số 1 - Trang 28 – 35 - 2019
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị và tính an toàn của phương pháp đặt bóng chèn lòng tử cung bằng sonde Foley trong xử trí băng huyết sau sinh không do tổn thương đường sinh dục tại bệnh viện Sản - Nhi tỉnh Quảng Ngãi. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu trên 43 sản phụ sau sinh ngã âm đạo được chẩn đoán băng huyết sau sinh không do tổn thương đường sinh dục và đã được điều trị nội khoa thất bại tại Khoa Sản - Bệnh viện Sản - Nhi tỉnh Quảng Ngãi, trong thời gian từ tháng 01 năm 2018 đến tháng 11 năm 2018. Thiết kế nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên không đối chứng. Sử dụng sonde Foley số 30 để làm bóng chèn lòng tử cung. Kết quả: Tỷ lệ thành công của phương pháp bóng chèn lòng tử cung trong xử trí băng huyết sau sinh không do tổn thương đường sinh dục là 95,35% (41/43). Thời gian trung bình chẩn đoán phương pháp bóng chèn lòng tử cung có hiệu quả cầm máu từ 10 đến 17 phút. Thời gian lưu bóng chèn lòng tử cung từ 6 đến 12 giờ. Lượng dịch bơm vào bóng chèn lòng tử cung từ 130 đến 200ml. Lượng máu mất thêm sau khi đặt bóng chèn lòng tử cung đến khi chẩn đoán phương pháp thành công từ 10 đến 50ml. Kết luận: Điều trị băng huyết sau sinh không do tổn thương đường sinh dục sau điều trị nội thất bại bằng phương pháp bóng chèn lòng tử cung là một phương pháp điều trị bảo tồn an toàn và hiệu quả.
#Băng huyết sau sinh #Sonde foley.
Đánh giá hiệu quả khởi phát chuyển dạ của sonde Foley 2 bóng cải tiến trên thai quá ngày sinh tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả khởi phát chuyển dạ của sonde Foley 2 bóng cải tiến trong khởi phát chuyển dạ ở thai quá ngày sinh, có chỉ định sinh đường âm đạo. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả dọc trên 69 thai phụ tại Khoa Sản - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 09/2020 đến tháng 09/2021 với tiêu chuẩn: Thai đơn, tuổi thai ≥ 41 tuần, ngôi chỏm, không có rau tiền đạo, chỉ số Bishop < 6 điểm, cổ tử cung không thuận lợi lóc ối, màng ối còn nguyên vẹn, không có nhiễm khuẩn âm đạo, có chỉ định sinh đường âm đạo và thai phụ đồng ý tham gia nghiên cứu. Kết quả: Với tiêu chuẩn thành công KPCD là chỉ số Bishop ≥ 7, tỷ lệ KPCD thành công bằng sonde Foley 2 bóng cải tiến là 82,6%, chỉ số Bishop tăng trung bình 4,2 điểm có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Tỷ lệ sinh đường âm đạo chung là 86,9%. Tỷ lệ sinh đường âm đạo ở nhóm KPCD thành công là 93,0%. Chỉ có 4,3% thai phụ có biến chứng sốt nhẹ liên quan đến đặt ống sonde Foley. Không ghi nhận biến chứng với sơ sinh. Kết luận: Nghiên cứu đã ghi nhận sonde Foley 2 bóng cải tiến có hiệu quả cao trong khởi phát chuyển dạ và làm tăng tỉ lệ đẻ đường âm đạo. Phương pháp này hầu như không gây nguy hại gì cho sản phụ và thai nhi
#Khởi phát chuyển dạ #sonde Foley 2 bóng #thai quá ngày sinh
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ BẰNG SONDE FOLEY ĐẶT KÊNH CỔ TỬ CUNG Ở THAI TRÊN 22 TUẦN TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI NGHỆ AN TỪ THÁNG 12/2021 – 10/2022
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 63 Số chuyên đề 3-HN Sản Nhi Nghệ An - 2022
Đặt vấn đề: Trong các phương pháp khởi phát chuyển dạ, đặt ống thông Foley ở kênh cổ tửcung là một phương pháp đơn giản, chi phí thấp được áp dụng phổ biến tại các bệnh viện lớn ởViệt Nam.Mục tiêu: Nhận xét hiệu quả và một số yếu tố liên quan khởi phát chuyển dạ bằng sonde Foleyđặt ở kênh cổ tử cung ở thai trên 22 tuần.Phương pháp: Mô tả cắt ngang hồi cứu và tiến cứu trên 82 sản phụ có chỉ định chấm dứt thaikỳ, tuổi thai từ 22 tuần trở lên tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An từ tháng 12/2021 – 10/2022.Kết quả: Tỉ lệ thành công khởi phát chuyển dạ: thành công mức độ 1 là 93,9%: thành côngmức độ 2 là 80,5% và thành công thực sự là 73,1%. Bishop sau bơm bóng tăng trung bình là 3,5 ±1,5 điểm. Không ghi nhận tác dụng phụ nghiêm trọng sau dùng Foley. Tỉ lệ khởi phát chuyển dạthành công không bị ảnh hưởng bởi nhóm tuổi, số lần sinh, tiền sử mổ lấy thai. Tỉ lệ khởi phátchuyện dạ thành công càng cao khi chỉ số Bishop trước đặt Foley càng cao.Kết luận: Sonde Foley có hiệu quả cao trong khởi phát chuyển dạ, rất ít tác dụng không mongmuốn.
#Khởi phát chuyển dạ #sonde Foley.
KẾT QUẢ KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ BẰNG SONDE FOLEY VÀ DINOPROSTONE Ở THAI ≥ 37 TUẦN TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ NĂM 2022-2023
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 65 - Trang 212-218 - 2023
Đặt vấn đề: Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ bắt đầu sử dụng sonde Foley để khởi phát chuyển dạ trên các thai trưởng thành bên cạnh phương pháp đang dùng là Dinoprostone đặt âm đạo phóng thích chậm (Propess). Foley có ưu điểm là rẻ hơn Propess, tuy nhiên chưa có nghiên cứu so sánh kết quả của hai phương pháp trên. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả khởi phát chuyển dạ bằng sonde Foley và Propess ở thai phụ ≥ 37 tuần. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng trên 150 thai phụ, trong đó có 75 thai phụ được dùng sonde Foley và 75 thai phụ được dùng Propess. Kết quả: Tỉ lệ khởi phát chuyển dạ thành công ở nhóm Foley (77,3%) thấp hơn nhóm Propess (85,3%) nhưng không có ý nghĩa thống kê (RR=0,91; KTC 95%: 0,78-1,06, p=0,209). Thời gian trung bình để khởi phát thành công ở nhóm Foley tương đương nhóm Propess (9,± 3,3 giờ; 10,1±5,0 giờ, p=0,171). Tuy nhiên, tỉ lệ phải dùng oxytocin để tăng co sau khởi phát thành công ở nhóm Foley gấp 4,7 (KTC 95%: 2,5-8,8) lần; tỉ lệ sử dụng thuốc làm mềm cổ tử cung gấp 2,1 (KTC 95%: 1,2-3,9) lần nhóm Propess. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ sinh đường âm đạo sau khởi phát chuyển dạ thành công (70,7%; 79,7%, RR=0,89; KTC 95%: 0,721,09, p=0,249); thời gian trung bình từ lúc khởi phát đến khi sinh đường âm đạo (14,5±7,8 giờ; 12,7±7,9 giờ, p=0,275). Kết luận: Dùng sonde Foley để khởi phát chuyển dạ có hiệu quả tương đương dùng Dinoprostone, tuy nhiên cần phải dùng oxytocin và thuốc làm mềm cổ tử cung nhiều hơn.
#Khởi phát chuyển dạ #sonde Foley #Dinoprostone
Tổng số: 4   
  • 1