Parvovirus là gì? Các công bố khoa học về Parvovirus

Parvovirus thuộc họ Parvoviridae, là virus nhỏ, kích thước 18-26 nm, chứa một sợi DNA đơn. Nổi bật là Parvovirus B19, Canine parvovirus (CPV), và Feline panleukopenia virus (FPV). B19 gây bệnh ban đỏ nhi đồng, CPV nguy hiểm cho chó, còn FPV gây suy giảm bạch cầu ở mèo. Virus lây qua đường hô hấp và tiếp xúc dịch tiết. Triệu chứng đa dạng, chẩn đoán qua xét nghiệm máu hoặc phân. Tiêm phòng là biện pháp phòng ngừa hiệu quả nhất, bên cạnh chăm sóc hỗ trợ và điều trị triệu chứng.

Parvovirus là gì?

Parvovirus là một nhóm virus nhỏ thuộc họ Parvoviridae, nổi tiếng với khả năng lây nhiễm và gây bệnh cho cả động vật và con người. Các virus này có kích thước rất nhỏ, đường kính khoảng 18-26 nm, và chứa một sợi DNA đơn. Do cấu trúc đơn giản, parvovirus phụ thuộc vào các tế bào chủ để tái tạo và nhân lên.

Các loại parvovirus

Parvovirus có nhiều loại khác nhau, trong đó nổi bật nhất là Parvovirus B19, Canine parvovirus (CPV) và Feline panleukopenia virus (FPV).

  • Parvovirus B19: Đây là loại virus chủ yếu gây nhiễm trùng ở người. Được biết đến với khả năng gây bệnh ban đỏ nhi đồng (Fifth disease), B19 có thể dẫn đến các triệu chứng như sốt, đau nhức cơ và phát ban da.
  • Canine parvovirus (CPV): Đây là loại virus lây nhiễm cho chó, đặc biệt là chó con. CPV đặc biệt nguy hiểm, gây ra viêm ruột nặng, nôn mửa, tiêu chảy và có thể dẫn đến tử vong nếu không được điều trị kịp thời.
  • Feline panleukopenia virus (FPV): Virus này tác động chủ yếu vào mèo, gây hại rất lớn cho mèo con. FPV có khả năng gây suy giảm bạch cầu nghiêm trọng, làm mất sức đề kháng và dễ dẫn đến tử vong.

Cơ chế lây nhiễm

Parvovirus có thể lan truyền qua nhiều con đường khác nhau tùy thuộc vào loại virus. Đối với B19, virus chủ yếu lan truyền qua đường hô hấp thông qua tiếp xúc với dịch tiết từ mũi hoặc miệng của người nhiễm bệnh. CPV và FPV thường lây lan qua đường bú sữa mẹ từ mẹ bị nhiễm hoặc tiếp xúc với phân của động vật nhiễm bệnh.

Triệu chứng và chẩn đoán

Parvovirus gây ra các triệu chứng khác nhau tùy theo loại và đối tượng nhiễm bệnh. Đối với B19 ở trẻ em, các triệu chứng bao gồm sốt nhẹ, tiêu chảy và phát ban đỏ. Chó bị nhiễm CPV thường có triệu chứng tiêu chảy nặng, nôn mửa và mất nước, trong khi mèo bị FPV có thể có biểu hiện sốt, trầm cảm và chán ăn.

Chẩn đoán parvovirus có thể được thực hiện thông qua xét nghiệm máu để tìm kháng thể hoặc xét nghiệm phân để tìm dấu vết của virus (đối với động vật).

Phòng ngừa và điều trị

Tiêm phòng là biện pháp phòng ngừa hiệu quả nhất đối với parvovirus. Có sẵn vắc-xin cho CPV và FPV trong thú y, trong khi vắc-xin B19 đang trong quá trình nghiên cứu. Chăm sóc hỗ trợ và điều trị triệu chứng thường là cần thiết để điều trị parvovirus, bao gồm bù nước và điện giải cho bệnh nhân hoặc động vật bị nhiễm.

Kết luận

Parvovirus dù rất nhỏ và đơn giản nhưng có khả năng gây bệnh đáng kể cho cả con người và động vật. Hiểu biết sâu về các loại parvovirus, cơ chế lây nhiễm và phương pháp phòng ngừa có thể giúp giảm thiểu sự lây lan và tác động của các loại virus này trong cộng đồng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "parvovirus":

Bằng chứng về sự tiến hoá của virus parvo ở chó loại 2 tại Ý Dịch bởi AI
Journal of General Virology - Tập 82 Số 12 - Trang 3021-3025 - 2001

Hai chủng phân lập của virus parvo ở chó (CPV) đã được tách từ các cá thể chó bị ảnh hưởng bởi tình trạng tiêu chảy xuất huyết nghiêm trọng. Tính đặc hiệu kháng nguyên loại 2b đã được dự đoán qua phân tích kháng nguyên với kháng thể đơn dòng và phân tích đặc điểm PCR với các mồi đặc hiệu loại. Tuy nhiên, phân tích trình tự của gen mã hoá protein vỏ nang đã tiết lộ hai sự thay đổi acid amin. Một trong những sự thay đổi này ảnh hưởng đến vị trí 426 (Asp thành Glu), tại một vị trí kháng nguyên chính của vỏ nang virus, xác định sự thay thế của một dư lượng độc nhất cho loại 2b của CPV. Sự thất bại của các phương pháp phân loại hiện có trong việc phân biệt biến thể kháng nguyên này đã được khắc phục bằng sự phát triển của một thử nghiệm RFLP.

#canine parvovirus #antigenic specificity #monoclonal antibodies #PCR characterization #capsid protein #amino acid change #antigenic site #RFLP assay #viral evolution #Italy
Thay thế nhanh chóng loại kháng nguyên và tiến hóa trình tự DNA của virus parvo ở chó Dịch bởi AI
Journal of Virology - Tập 65 Số 12 - Trang 6544-6552 - 1991

Phân tích các chủng virus parvo ở chó (CPV) bằng bảng kháng thể đơn dòng cho thấy sau năm 1986, hầu hết các virus được phân lập từ chó ở nhiều khu vực của Hoa Kỳ có sự khác biệt về kháng nguyên so với các virus đã được phân lập trước đó. Loại kháng nguyên mới (được gọi là CPV type 2b) đã thay thế hầu hết loại kháng nguyên trước đây (CPV type 2a) trong các mẫu virus phân lập từ Hoa Kỳ. Điều này đại diện cho lần thứ hai xuất hiện một loại kháng nguyên mới của loại virus DNA này kể từ khi nó xuất hiện vào năm 1978, khi loại CPV ban đầu (CPV type 2) đã bị thay thế trước đó trong khoảng thời gian từ năm 1979 đến năm 1981 bởi dòng CPV type 2a. So sánh trình tự DNA cho thấy các loại CPV 2b và 2a khác nhau chỉ bằng hai điểm thay đổi nucleotide không đồng nghĩa (thay đổi axit amin) trong các gen mã hóa protein vỏ VP-1 và VP-2. Một đột biến, dẫn đến sự khác biệt Asn-Asp ở vị trí 426 trong trình tự VP-2, đã được chỉ ra bằng cách so sánh với một đột biến thoát ngăn ngừa được chọn bởi kháng thể đơn dòng không phản ứng với CPV type 2b để xác định sự thay đổi kháng nguyên. Đột biến được chọn bởi kháng thể đơn dòng đó, sự khác biệt His-Tyr ở axit amin 222 của VP-2, nằm ngay cạnh vị trí 426 trong cấu trúc ba chiều của vỏ CPV. Các chủng CPV type 2b về mặt phát sinh loài có mối liên hệ gần gũi với các chủng CPV type 2a và có lẽ có nguồn gốc từ cùng một tổ tiên. Phân tích phát sinh loài cho thấy sự tiến hóa dần dần cách xa loại CPV ban đầu. Mẫu hình tiến hóa virus này có vẻ tương tự nhất với một số loại virus cúm A.

#CPV type 2b #CPV type 2a #virus parvo #kháng nguyên #đột biến #phát sinh loài #VP-1 #VP-2
Một phương pháp phát hiện virus kết hợp xử lý DNase và ứng dụng vào việc xác định hai loài parvovirus bò Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 98 Số 20 - Trang 11609-11614 - 2001
Nhận diện các tác nhân virus chưa được nhận biết trước đây trong mẫu huyết thanh hoặc huyết tương là một mối quan tâm lớn về mặt y học nhưng vẫn là một thách thức lớn do sự hiện diện phong phú của DNA ký chủ. Các phương pháp hiện tại như sàng lọc thư viện hoặc phân tích chênh lệch đại diện (RDA) rất tốn công và yêu cầu các bộ mẫu đã chọn. Chúng tôi đã phát triển một phương pháp đơn giản và tái hiện được để phát hiện virus trong các mẫu huyết thanh đơn, dựa trên xử lý DNase của huyết thanh, tiếp theo là phân cắt enzyme hạn chế và khuếch đại primer đơn không phụ thuộc chuỗi (SISPA) của các mảnh, và đã đánh giá hiệu suất của phương pháp này trên các virus đã biết. Cả virus DNA và virus RNA với nồng độ ≈10^6 tương đương genome/ml đều được nhận diện ổn định trong 50 μl huyết thanh. Trong quá trình đánh giá phương pháp, hai parvovirus chưa biết trước đây đã được phát hiện trong huyết thanh bò được sử dụng làm chất pha loãng. Trình tự genome gần hoàn chỉnh của từng virus đã được xác định; việc phân loại của chúng như hai loài (tạm thời được đặt tên là parvovirus bò 2 và 3) đã được xác nhận qua phân tích phân loại học. Cả hai virus được phát hiện là tác nhân gây nhiễm thường xuyên trong huyết thanh bò thương mại. Xử lý DNase của các mẫu huyết thanh có thể trở thành một công cụ rất hữu ích cho việc phát hiện virus. Phương pháp DNase-SISPA thích hợp cho việc kiểm tra một số lượng lớn các mẫu và cũng cho phép xác định nhanh trình tự của các virus đậm đặc.
#virus discovery #DNase treatment #parvovirus #bovine serum #genome sequencing #phylogenetic analysis
Nhiễm Parvovirus B19 Giả Dạng Nhồi Máu Cơ Tim Cấp Dịch bởi AI
Ovid Technologies (Wolters Kluwer Health) - Tập 108 Số 8 - Trang 945-950 - 2003

Bối cảnh— Virus enterovirus (EV) và adenovirus (ADV) đã được coi là nguyên nhân phổ biến gây ra viêm cơ tim và bệnh lý cơ tim giãn nở. Trong nghiên cứu này, chúng tôi báo cáo về sự liên kết của các bộ gene parvovirus B19 (PVB19) trong bối cảnh lâm sàng của viêm cơ tim cấp tính.

Phương pháp và Kết quả— Nghiên cứu này bao gồm 24 bệnh nhân nhập viện liên tục trong vòng 24 giờ sau khi bắt đầu đau ngực. Nhồi máu cơ tim cấp tính đã bị loại trừ ở tất cả các bệnh nhân bằng chụp động mạch vành. Mẫu sinh thiết cơ tim được phân tích bằng phản ứng chuỗi polymerase lồng ghép/phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược cho các bộ gene EV, ADV, PVB19, virus cytomegalovirus ở người, virus Epstein-Barr, Chlamydia pneumoniae , virus cúm A và B, và Borrelia burgdorferi , sau đó thực hiện giải trình tự trực tiếp sản phẩm khuếch đại. Tất cả các bệnh nhân đều xuất hiện với khởi phát cơn đau thắt ngực cấp tính và điện tâm đồ có đoạn ST chênh lên hoặc đảo ngược sóng T giả dạng nhồi máu cơ tim cấp tính. Trung bình đỉnh creatinine kinase và creatine kinase-phân đoạn isoenzyme là 342±241 U/L và 32±20 U/L, tương ứng. Troponin T trung bình tăng lên 7,5±15,0 ng/mL và protein phản ứng C lên 91±98 mg/mL. Mười tám bệnh nhân có bất thường chuyển động thành toàn cầu hoặc vùng (phân suất tống máu 62,5±15,5%). Phân tích mô học loại trừ sự hiện diện của viêm cơ tim đang hoạt động hoặc ranh giới ở tất cả trừ một bệnh nhân. Các bộ gene PVB19, EV, và ADV được phát hiện trong cơ tim của 12, 3, và 2 bệnh nhân, tương ứng (71%). Các sinh thiết theo dõi của bệnh nhân dương tính với virus (11 trong số 17) cho thấy sự tồn tại của bộ gene PVB19 trong 6 trên 6 bệnh nhân, bộ gene EV trong 2 trên 3 bệnh nhân và bộ gene ADV trong 1 trên 2 bệnh nhân, tương ứng.

Kết luận— Các bộ gene virus có thể được chứng minh ở 71% bệnh nhân với giải phẫu động mạch vành bình thường, lâm sàng giả dạng nhồi máu cơ tim cấp tính. Ngoài EV và ADV, PVB19 là mầm bệnh phổ biến nhất.

#parvovirus B19 #viêm cơ tim cấp #nhồi máu cơ tim #virus enterovirus #adenovirus #bộ gene virus #sinh thiết nội cơ tim #phản ứng khuếch đại chuỗi polymerase #động mạch vành #protein phản ứng C
Sự Di Chuyển Tự Nhiên của Phạm Vi Ký Chủ và Tiến Hóa Kế Tiếp của Virus Gây Tiêu Chảy Cho Chó Nảy Sinh từ Việc Liên Kết Đặc Hiệu của Virus với Thụ Thể Transferrin ở Chó Dịch bởi AI
Journal of Virology - Tập 77 Số 3 - Trang 1718-1726 - 2003
TÓM TẮT

Virus gây tiêu chảy ở chó (CPV) là một biến thể phạm vi ký chủ của virus mèo mà có khả năng lây nhiễm cho chó thông qua sự thay đổi protein capsid. Cả virus chó và mèo đều sử dụng thụ thể transferrin mèo (TfR) để lây nhiễm tế bào mèo, và tại đây chúng tôi cho thấy rằng CPV lây nhiễm vào tế bào chó thông qua khả năng liên kết đặc biệt với TfR của chó. Việc liên kết thụ thể trên tế bào chủ ở nhiệt độ 37°C chỉ liên quan một phần với phạm vi ký chủ của các virus, và một biến thể virus trung gian (loại 2 của CPV) liên kết với cấp độ cao hơn trên tế bào so với virus giảm bạch cầu mèo hoặc một biến thể sau này của CPV. Trong quá trình thích nghi với chó, biến thể sau của CPV đã đạt được khả năng sử dụng hiệu quả hơn TfR của chó để lây nhiễm và cũng cho thấy mức độ liên kết giảm với tế bào mèo và chó so với loại 2 của CPV. Các khác biệt trên đỉnh và mặt bên của phần ba lần gấp của bề mặt capsid điều khiển việc liên kết đặc hiệu của TfR và hiệu quả liên kết với các tế bào mèo và chó, và những khác biệt này cũng quyết định đặc tính lây nhiễm tế bào của các virus.

#Canine parvovirus #feline virus #host range #capsid protein #feline transferrin receptor #canine cells #adaptation #infection efficiency #capsid surface #virus evolution
Canine Parvovirus
Veterinary Clinics of North America: Small Animal Practice - Tập 40 Số 6 - Trang 1041-1053 - 2010
Molecular Epidemiology of Canine Parvovirus, Europe
Emerging Infectious Diseases - Tập 13 Số 8 - Trang 1222-1224
Replication of the Parvovirus MVM I. Dependence of Virus Multiplication and Plaque Formation on Cell Growth
Journal of Virology - Tập 10 Số 4 - Trang 586-590 - 1972

A plaque assay has been developed for the minute virus of mice. The infectious unit is a single particle. Plaque size is determined by the extent of cell division in the infected monolayer. Infection of quiescent and serum-stimulated cells suggests that virus multiplication depends on host function(s) that are not normally expressed in resting cells.

Kích hoạt các Cathepsin trong Bào Tương gây Chết Tế Bào Glioma Kháng Cisplatin và TRAIL do Virus Parvovirus H-1 Dịch bởi AI
Journal of Virology - Tập 81 Số 8 - Trang 4186-4198 - 2007
TÓM TẮT

Glioma thường kháng lại việc kích thích chết tế bào theo con đường apoptosis do sự phát triển của các cơ chế sinh tồn trong quá trình biến đổi ác tính của tế bào sao. Đặc biệt, biểu hiện quá mức của các thành viên họ Bcl-2 can thiệp vào quá trình khởi động apoptosis do các tác nhân gây tổn thương DNA (ví dụ: cisplatin) hoặc các ligand gây chết hoà tan (ví dụ: TRAIL). Sử dụng các dòng nuôi cấy số lượng thấp của tế bào glioma, chúng tôi đã chứng minh rằng virus parvovirus H-1 có khả năng gây chết ở các tế bào kháng TRAIL, cisplatin, hoặc cả hai, ngay cả khi Bcl-2 được biểu hiện quá mức. Parvovirus H-1 gây chết tế bào thông qua cả việc tích lũy các cathepsin B và L trong bào tương của các tế bào bị nhiễm và việc giảm mức độ của cystatin B và C, hai chất ức chế cathepsin. Việc suy giảm của bất kỳ tác động nào trong hai tác động này bảo vệ tế bào glioma khỏi hiệu ứng tiêu diệt virus. Trong tế bào sao người bình thường, parvovirus H-1 không thể kích thích cơ chế giết chết. Trong cơ thể sống, sự nhiễm parvovirus H-1 vào tế bào glioma chuột được cấy trong não động vật thụ nhận cũng kích hoạt cathepsin B. Báo cáo này lần đầu tiên xác định các chất năng của tế bào chịu trách nhiệm cho hoạt động giết chết của parvovirus H-1 đối với tế bào não ác tính và mở ra một hướng điều trị tránh khỏi sự kháng cự thường xuyên của chúng đối với các chất gây chết khác.

#Glioma #Parvovirus H-1 #apoptosis #Bcl-2 #TRAIL #cisplatin #cathepsins #cystatin B #cystatin C #ung thư não #tế bào sao #kháng thuốc #cơ chế sinh tồn.
Tổng số: 1,105   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10