Literature là gì? Các công bố khoa học về Literature
Literature là một thuật ngữ trong tiếng Anh, có nghĩa là "văn học". Nó bao gồm tất cả các tác phẩm văn học như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch, và phi tiểu ...
Literature là một thuật ngữ trong tiếng Anh, có nghĩa là "văn học". Nó bao gồm tất cả các tác phẩm văn học như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch, và phi tiểu thuyết. Literature cũng có thể ám chỉ tất cả các tác phẩm văn học của một quốc gia hoặc một thời kỳ nhất định, ví dụ như "văn học Anh", "văn học Mỹ", hoặc "văn học thế kỷ 19".
Literature là một hình thức nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ để diễn tả ý nghĩa, sự truyền đạt và truyền cảm hứng thông qua các tác phẩm văn học. Nó có thể được phân loại thành nhiều thể loại khác nhau như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch, và phi tiểu thuyết.
Tiểu thuyết là một tác phẩm dài, kể một câu chuyện đầy đủ với các nhân vật và cốt truyện phát triển. Truyện ngắn là một tác phẩm ngắn hơn, tập trung vào một buổi đời hoặc một sự kiện đặc biệt. Thơ là một hình thức tưởng tượng đặc biệt, sử dụng các yếu tố như âm điệu, nhịp điệu và hình ảnh hình dung để truyền đạt ý nghĩa. Kịch là một hình thức nghệ thuật sử dụng đối thoại và hành động để diễn tả câu chuyện. Phi tiểu thuyết là một loại tác phẩm không theo các quy tắc của thể loại tiểu thuyết truyền thống.
Với từng quốc gia và văn hóa khác nhau, literature cũng có thể được phân vào các thể loại và khoảng thời gian cụ thể. Ví dụ, văn học Anh bao gồm các tác phẩm từ nước Anh, bao gồm tác phẩm của William Shakespeare, Jane Austen và Charles Dickens. Văn học Mỹ bao gồm các tác phẩm từ Hoa Kỳ, với những tác giả như Ernest Hemingway, F. Scott Fitzgerald và Toni Morrison. Văn học thế kỷ 19 là một khoảng thời gian lịch sử cụ thể, chứa các tác phẩm từ các tác giả như Victor Hugo, Leo Tolstoy và Edgar Allan Poe.
Literature không chỉ có giá trị giải trí mà còn mang tính phân tích và sự thẩm định. Nó cho phép độc giả thể hiện cảm xúc, suy ngẫm và nhìn nhận về thế giới xung quanh. Nó cũng thể hiện các giá trị và khía cạnh văn hóa của một xã hội cụ thể.
Literature là một lĩnh vực nghệ thuật đa dạng và phong phú, ở đó các tác giả sử dụng ngôn ngữ và ngữ cảnh để tạo ra các tác phẩm sáng tạo và truyền tải thông điệp sâu sắc về con người, xã hội và thế giới xung quanh. Literature có thể được phân loại thành nhiều thể loại khác nhau, và mỗi thể loại đề cập đến các yếu tố và quy tắc cụ thể để tạo ra một tác phẩm văn học chất lượng.
Tiểu thuyết là một thể loại dài và phức tạp, tạo ra một thế giới hư cấu hoặc phản ánh thực tế, có nhân vật phát triển đầy đủ và một cốt truyện phức tạp. Truyện ngắn là một hình thức văn chương ngắn hơn, thường tập trung vào một tình huống đặc biệt hoặc một phản ánh ngắn về cuộc sống. Thơ được viết trong các hình thức văn bản khác nhau như thơ tự do, thơ chữ, thơ giao hưởng và sử dụng các kỹ thuật như ánh sáng, âm điệu và rima để tạo ra hiệu ứng và truyền tải ý nghĩa sâu sắc hơn.
Kịch là một thể loại văn học được viết để được trình diễn trên sân khấu, với sự tham gia của các diễn viên và đạo diễn. Nó sử dụng đối thoại và hành động để tạo ra một câu chuyện và truyền đạt ý nghĩa. Kịch có thể là hài kịch, bi kịch, kịch vũ đạo và có thể giữ một cấu trúc và quy tắc cụ thể.
Các tác phẩm phi tiểu thuyết không theo các quy tắc và hình thức cổ điển của tiểu thuyết truyền thống. Chẳng hạn như bài viết phi hư cấu, nhật ký, tự truyện và các tác phẩm không tuân theo cấu trúc, thời gian hoặc quy tắc ngữ pháp.
Văn học cũng có thể được phân loại theo quốc gia hoặc khu vực, ví dụ như văn học Anh, văn học Pháp, văn học Latin hay văn học Việt Nam. Mỗi quốc gia và khu vực sẽ có những tác phẩm và tác giả đặc trưng cho nền văn hóa và ngôn ngữ của họ.
Văn học có vai trò quan trọng trong xã hội, nó không chỉ giúp con người giải trí và tiếp cận những tác phẩm nghệ thuật, mà còn khám phá, tìm hiểu và hiểu sâu hơn về nhân loại và cuộc sống. Nó tạo cơ hội cho con người chia sẻ ý kiến, tư duy và truyền đạt các giá trị văn hóa và đạo đức.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "literature":
Bài báo này khác biệt với những nghiên cứu trước đây về học tập tổ chức ở chỗ nó có phạm vi rộng hơn và đánh giá nhiều hơn về các tác phẩm văn học. Bốn cấu trúc liên quan đến học tập tổ chức (tiếp thu kiến thức, phân phối thông tin, diễn giải thông tin, và trí nhớ tổ chức) được nêu rõ, và các tác phẩm văn học liên quan đến mỗi cấu trúc này được mô tả và phân tích.
Văn học về tiếp thu kiến thức rất phong phú và đa diện, và do đó cấu trúc tiếp thu kiến thức được mô tả ở đây bao gồm năm tiểu cấu trúc hoặc tiểu quy trình: (1) tiếp thu kiến thức có sẵn tại thời điểm tổ chức được thành lập, (2) học tập từ kinh nghiệm, (3) học từ việc quan sát các tổ chức khác, (4) gắn kết với những thành phần có kiến thức cần thiết mà tổ chức chưa có, và (5) nhận biết hoặc tìm kiếm thông tin về môi trường và hiệu suất của tổ chức. Việc kiểm tra các tài liệu liên quan cho thấy rằng rất nhiều đã được học từ kinh nghiệm, nhưng cũng có sự thiếu hụt trong công việc tích lũy và thiếu sự tích hợp công việc từ các nhóm nghiên cứu khác nhau. Tương tự như vậy, nhiều đã được học từ việc tìm kiếm tổ chức, nhưng có sự thiếu hụt trong công việc khái niệm, và thiếu cả công việc tích lũy và sự tổng hợp để tạo ra một tài liệu trưởng thành hơn. Học tập bẩm sinh, học gián tiếp và gắn kết là những quy trình tiếp thu thông tin mà về chúng còn tương đối ít được biết đến.
Văn học liên quan đến phân phối thông tin phong phú và trưởng thành, nhưng một khía cạnh của phân phối thông tin, điều mà rất quan trọng cho việc tổ chức hưởng lợi từ học tập của mình, cụ thể là cách mà các đơn vị có thông tin và các đơn vị cần thông tin có thể tìm thấy nhau nhanh chóng và với xác suất cao, vẫn chưa được khám phá. Diễn giải thông tin, như một quy trình tổ chức, thay vì một quy trình cá nhân, cần có công việc thực nghiệm để tiến xa hơn. Trí nhớ tổ chức rất cần có sự điều tra có hệ thống, đặc biệt từ những ai có mối quan tâm đặc biệt là cải thiện học tập tổ chức và ra quyết định.
Việc thiết lập tính bất biến đo lường giữa các nhóm là một điều kiện tiên quyết hợp lý để tiến hành so sánh liên nhóm chính xác (ví dụ như kiểm định sự khác biệt trung bình nhóm, sự bất biến của các ước tính tham số cấu trúc), tuy nhiên tính bất biến đo lường hiếm khi được kiểm tra trong nghiên cứu tổ chức. Trong bài báo này, các tác giả (a) làm rõ tầm quan trọng của việc thực hiện các kiểm định tính bất biến đo lường giữa các nhóm, (b) xem xét các thực hành khuyến nghị cho việc thực hiện các kiểm định tính bất biến đo lường, (c) điểm lại ứng dụng của các kiểm định tính bất biến đo lường trong ứng dụng thực tiễn, (d) thảo luận về các vấn đề liên quan đến kiểm định các khía cạnh khác nhau của tính bất biến đo lường, (e) trình bày một ví dụ thực nghiệm về phân tích tính bất biến đo lường theo thời gian, và (f) đề xuất một mô hình tích hợp cho việc thực hiện các dãy kiểm định tính bất biến đo lường.
Một hình thức độc đáo mới về liên kết tài liệu gọi là đồng trích dẫn được định nghĩa là tần suất mà hai tài liệu được trích dẫn cùng nhau. Tần suất đồng trích dẫn của hai bài báo khoa học có thể được xác định bằng cách so sánh danh sách tài liệu trích dẫn trong
Tóm tắt. Cả sai số bình phương trung bình (RMSE) và sai số tuyệt đối trung bình (MAE) đều thường được sử dụng trong các nghiên cứu đánh giá mô hình. Willmott và Matsuura (2005) đã đề xuất rằng RMSE không phải là một chỉ số tốt về hiệu suất trung bình của mô hình và có thể là một chỉ báo gây hiểu lầm về sai số trung bình, do đó MAE sẽ là một chỉ số tốt hơn cho mục đích đó. Mặc dù một số lo ngại về việc sử dụng RMSE được Willmott và Matsuura (2005) và Willmott et al. (2009) nêu ra là có cơ sở, sự đề xuất tránh sử dụng RMSE thay vì MAE không phải là giải pháp. Trích dẫn những bài báo đã nói ở trên, nhiều nhà nghiên cứu đã chọn MAE thay vì RMSE để trình bày thống kê đánh giá mô hình của họ khi việc trình bày hoặc thêm các chỉ số RMSE có thể có lợi hơn. Trong ghi chú kỹ thuật này, chúng tôi chứng minh rằng RMSE không mơ hồ trong ý nghĩa của nó, trái ngược với những gì được Willmott et al. (2009) tuyên bố. RMSE thích hợp hơn để đại diện cho hiệu suất của mô hình khi phân phối sai số được kỳ vọng là phân phối Gaussian. Ngoài ra, chúng tôi chỉ ra rằng RMSE thỏa mãn yêu cầu bất đẳng thức tam giác cho một chỉ số đo khoảng cách, trong khi Willmott et al. (2009) chỉ ra rằng các thống kê dựa trên tổng bình phương không thỏa mãn quy tắc này. Cuối cùng, chúng tôi đã thảo luận về một số tình huống mà việc sử dụng RMSE sẽ có lợi hơn. Tuy nhiên, chúng tôi không tranh cãi rằng RMSE ưu việt hơn MAE. Thay vào đó, một sự kết hợp của các chỉ số, bao gồm nhưng chắc chắn không giới hạn ở RMSEs và MAEs, thường cần thiết để đánh giá hiệu suất của mô hình.\n
Bài viết này mô tả sự phát triển mới nhất của một cách tiếp cận tổng quát để phát hiện và hình dung các xu hướng nổi bật và các kiểu tạm thời trong văn học khoa học. Công trình này đóng góp đáng kể về lý thuyết và phương pháp luận cho việc hình dung các lĩnh vực tri thức tiến bộ. Một đặc điểm là chuyên ngành được khái niệm hóa và hình dung như một sự đối ngẫu theo thời gian giữa hai khái niệm cơ bản trong khoa học thông tin: các mặt trận nghiên cứu và nền tảng trí tuệ. Một mặt trận nghiên cứu được định nghĩa như một nhóm nổi bật và nhất thời của các khái niệm và các vấn đề nghiên cứu nền tảng. Nền tảng trí tuệ của một mặt trận nghiên cứu là dấu chân trích dẫn và đồng trích dẫn của nó trong văn học khoa học—một mạng lưới phát triển của các ấn phẩm khoa học được trích dẫn bởi các khái niệm mặt trận nghiên cứu. Thuật toán phát hiện bùng nổ của Kleinberg (2002) được điều chỉnh để nhận dạng các khái niệm mặt trận nghiên cứu nổi bật. Thước đo độ trung gian của Freeman (1979) được sử dụng để làm nổi bật các điểm chuyển đổi tiềm năng như các điểm chịu ảnh hưởng nền tảng trong thời gian. Hai quan điểm hình dung bổ sung được thiết kế và thực hiện: các quan điểm cụm và các quan điểm vùng thời gian. Những đóng góp của phương pháp là (a) bản chất của một nền tảng trí tuệ được nhận diện bằng thuật toán và theo thời gian bởi các thuật ngữ mặt trận nghiên cứu nổi bật, (b) giá trị của một cụm đồng trích dẫn được diễn giải rõ ràng theo các khái niệm mặt trận nghiên cứu, và (c) các điểm chịu ảnh hưởng nổi bật và được phát hiện bằng thuật toán giảm đáng kể độ phức tạp của một mạng lưới đã được hình dung. Quá trình mô hình hóa và hình dung được thực hiện trong CiteSpace II, một ứng dụng Java, và áp dụng vào phân tích hai lĩnh vực nghiên cứu: tuyệt chủng hàng loạt (1981–2004) và khủng bố (1990–2003). Các xu hướng nổi bật và các điểm chịu ảnh hưởng trong mạng lưới được hình dung đã được xác minh phối hợp với các chuyên gia trong lĩnh vực, là tác giả của các bài báo chịu ảnh hưởng. Các ngụ ý thực tiễn của công trình được thảo luận. Một số thách thức và cơ hội cho các nghiên cứu sau này được xác định.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10