Laser công suất thấp là gì? Các công bố khoa học về Laser công suất thấp

Laser công suất thấp là một loại laser có công suất phát ra thấp, thường từ vài mW (miliwatt) đến vài chục mW. Loại laser này thường được sử dụng trong các ứng ...

Laser công suất thấp là một loại laser có công suất phát ra thấp, thường từ vài mW (miliwatt) đến vài chục mW. Loại laser này thường được sử dụng trong các ứng dụng như đọc mã vạch, laser điều chỉnh, laser y học và các ứng dụng hiển thị. Vì công suất phát ra thấp, laser này ít gây nguy hiểm cho người sử dụng và có thể được sử dụng an toàn mà không cần biện pháp bảo vệ đặc biệt.
Laser công suất thấp là một loại laser có công suất phát ra thấp, thường ở mức vài mW (miliwatt) đến vài chục mW (megawatt), trong một khoảng thời gian nhất định. Công suất của laser được đo dựa trên năng lượng phát ra trong một đơn vị thời gian.

Các loại laser công suất thấp thường được sử dụng trong nhiều ứng dụng khác nhau. Dưới đây là một số ứng dụng phổ biến:

1. Đọc mã vạch: Laser công suất thấp được sử dụng để quét và đọc các mã vạch trên sản phẩm trong công nghiệp và bán lẻ. Các máy đọc mã vạch sử dụng laser này để truyền tín hiệu đến máy tính để xử lý thông tin.

2. Laser điều chỉnh: Laser công suất thấp được sử dụng trong các công việc điều chỉnh, như căn chỉnh gương, đo khoảng cách, kiểm tra mức độ thẳng đứng của các bề mặt, hoặc căn chỉnh trong các công đoạn sản xuất công nghiệp.

3. Laser y học: Laser công suất thấp được sử dụng trong các ứng dụng y tế như chiếu sáng để cung cấp hướng dẫn cho các quá trình phẫu thuật, xử lý da, trị liệu bằng laser, và làm sáng bề mặt răng.

4. Các ứng dụng hiển thị: Laser công suất thấp được sử dụng trong các thiết bị hiển thị, như máy chiếu hoặc điện thoại di động, để tạo ra hình ảnh hoặc ánh sáng được tái tạo từ các nguồn phát laser sáng.

Laser công suất thấp thường an toàn cho người sử dụng và môi trường xung quanh. Tuy nhiên, cần tuân thủ các biện pháp an toàn phù hợp để tránh tiếp xúc trực tiếp với tia laser và đảm bảo không gây ảnh hưởng đến mắt và da.
Laser công suất thấp thường được xác định dựa trên công suất phát ra, tức là năng lượng mà laser phát ra trong một đơn vị thời gian. Công suất được đo bằng mW (miliwatt). Đây là một khái niệm quan trọng để đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả của laser.

Laser công suất thấp có các đặc điểm sau:
1. Công suất: Thông thường, laser công suất thấp có công suất phát ra từ vài mW đến vài chục mW. Điều này đảm bảo rằng năng lượng của tia laser không quá cao để gây ra nguy hiểm đến sức khỏe con người.

2. Điểm sáng: Laser công suất thấp có thể tạo ra một tia laser mỏng, tập trung và sáng, thường là một màu duy nhất. Điều này hữu ích trong các ứng dụng y tế và trong việc làm sáng nơi làm việc chính xác như công việc điều chỉnh và kiểm tra.

3. Thời gian sử dụng: Laser công suất thấp thường được thiết kế để hoạt động trong khoảng thời gian ngắn, từ vài phút đến vài giờ. Điều này giúp người sử dụng dễ dàng kiểm soát thời gian sử dụng và tránh tiếp xúc quá lâu với tia laser.

4. Ứng dụng: Laser công suất thấp được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như công nghiệp, y tế, khoa học và giải trí. Ví dụ, trong công nghiệp, laser công suất thấp có thể được sử dụng để kiểm tra chất lượng sản phẩm, làm sáng nơi làm việc và thực hiện công việc công nghệ cao.

5. An toàn: Mặc dù công suất phát ra thấp, vẫn cần tuân thủ các biện pháp an toàn khi sử dụng laser công suất thấp. Điều này bao gồm việc đảm bảo không tiếp xúc trực tiếp với tia laser, sử dụng kính bảo vệ chuyên dụng (nếu cần), và tuân thủ hướng dẫn an toàn từ nhà sản xuất.

Tóm lại, laser công suất thấp là một loại laser có công suất phát ra thấp, thường từ vài mW đến vài chục mW. Đặc điểm này đảm bảo tính an toàn khi sử dụng và phù hợp cho nhiều ứng dụng khác nhau.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "laser công suất thấp":

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NHỔ RĂNG KHÔN DƯỚI CÓ SỬ DỤNG LASER CÔNG SUẤT THẤP TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ NĂM 2020-2022
  Đặt vấn đề: Dựa trên những đặc tính của laser trên mô sống, người ta tiến hành các nghiên cứu ứng dụng liệu pháp laser công suất thấp sau phẫu thuật răng khôn nhằm kiểm soát tình trạng sưng, đau, khít hàm. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới có sử dụng laser công suất thấp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 60 bệnh nhân trên 18 tuổi có răng khôn dưới mọc kẹt có chỉ định nhổ phẫu thuật. Loại trừ các bệnh nhân có bệnh toàn thân, chống chỉ định phẫu thuật. Mỗi bệnh nhân được chiếu laser diode trong miệng cách ổ răng 1cm và ngoài mặt tại vị trí bám tận cơ cắn (bước sóng 810 nm, công suất 0,5W, kích thước đầu chiếu 400µm) ngay sau phẫu thuật. Mỗi vị trí được chiếu 30 giây, lặp lại một lần sau 30 giây. Ghi nhận mức độ sưng, đau, khít hàm sau 1, 2, 7 ngày. Kết quả: Đa số bệnh nhân đau nhiều trong 6 giờ đầu sau khi hết tê môi, giảm đáng kể vào ngày 1 (81,7% đau ít), 90% không đau vào ngày 7. Trung bình cần dùng 4 viên thuốc giảm đau và ngưng thuốc trong 3 ngày đầu. Mức độ sưng mặt và khít hàm thay đổi đáng kể vào ngày 1 và 2 sau phẫu thuật (p < 0,05) và trở về gần như bình thường sau 7 ngày. Kết luận: Laser công suất thấp có hiệu quả trong việc kiểm soát mức độ sưng, đau, khít hàm sau phẫu thuật nhổ răng khôn dưới, đặc biệt là giảm đau.
#Laser công suất thấp #răng khôn mọc kẹt #diode laser #phẫu thuật
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU, SƯNG, KHÍT HÀM CỦA LASER DIODE CÔNG SUẤT THẤP SAU PHẪU THUẬT NHỔ RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI MỌC LỆCH NGẦM TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT NAM CU BA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 534 Số 1B - 2024
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau, sưng, khít hàm sử dụng laser diode công suất thấp sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch ngầm tại bệnh viện Việt Nam Cu Ba. Đối tượng và phương pháp: Đối tượng trong nghiên cứu gồm 100 bệnh nhân có nhu cầu và chỉ định nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch ngầm đến khám và điều trị tại khoa Răng miệng, Bệnh viện Việt Nam Cu Ba từ tháng 09/2022 đến tháng 06/2023. Bệnh nhân nghiên cứu được chia thành 2 nhóm có chiếu laser và không chiếu laser sau phẫu thuật răng khôn hàm dưới mọc lệch ngầm. Đánh giá mức độ sưng, đau, khít hàm giữa 2 nhóm. Kết quả: Điểm đau trung bình theo VAS cao nhất được ghi nhận sau phẫu thuật 4 giờ, ở nhóm có chiếu và không chiếu laser là 2,44 ± 1,41 và 5,62 ± 1,67. Điểm đau trung bình giữa nhóm có chiếu laser thấp hơn so với nhóm không chiếu laser các thời điểm sau phẫu thuật, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Ở ngày thứ 7, nhóm không chiếu laser vẫn còn đau trong khi nhóm có chiếu laser đã hết đau. Số viên thuốc giảm đau trung bình phải sử dụng ở nhóm bệnh nhân không chiếu laser (3,12 ± 1,58 viên) cao hơn so với nhóm bệnh nhân chiếu laser (0,59 ± 1,85 viên). Mức độ sưng theo chiều dọc và chiều ngang ở nhóm bệnh nhân phẫu thuật có chiếu laser thấp hơn so với nhóm không sử dụng ở ngày thứ 1 và thứ 2 sau phẫu thuật (p<0,05). Mức độ há miệng ở nhóm bệnh nhân phẫu thuật có chiếu laser tốt hơn ở nhóm không chiếu laser ở ngày thứ và thứ 2 sau phẫu thuật. Kết luận: Việc sử dụng laser diode có tác dụng làm giảm đau, giảm sưng nề, giảm mức độ khít hàm sau mổ ở những bệnh nhân răng khôn hàm dưới mọc lệch.
ĐÁNH GIÁ IN VITRO ẢNH HƯỞNG CỦA LASER CÔNG SUẤT THẤP TỚI KHẢ NĂNG TĂNG SINH VÀ DI CƯ CỦA NGUYÊN BÀO SỢI CÓ NGUỒN GỐC TỪ BỆNH NHÂN VẾT THƯƠNG MẠN TÍNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng của LLLT tới khả năng tăng sinh và di cư của nguyên bào sợi có nguồn gốc từ bệnh nhân vết thương mạn tính. Đối tượng và phương pháp: NBS da phân lập từ bệnh nhân vết thương mạn tính do loét tỳ đè và loét đái tháo đường theo quy trình của Freshney RI (2003). Tiến hành chiếu laser LLLT với mức năng lượng 3J ở các bước sóng 670nm, 780nm, 805nm, 980nm với thời gian chiếu tương ứng là: 170, 72, 72 và 76s để đánh giá tăng sinh và di cư của NBS giữa nhóm chiếu Laser và nhóm không chiếu. Kết quả: Khi chiếu LLLT với mức năng lượng 3J ở các bước sóng đều cho thấy NBS không thay đổi hình thái, tăng sinh mạnh hơn so với nhóm không chiếu, tăng cao nhất ở hai bước sóng 670 và 780nm. Tốc độ di cư của nguyên bào sợi ở nhóm chiếu laser nhanh hơn so với nhóm chứng, che phủ kín đĩa nuôi cấy ở ngày thứ 3. Kết luận: LLLT với mức năng lượng 3J không làm thay đổi hình thái nguyên bào sợi; gây kích thích sinh học, tăng sinh và di cư của các mẫu NBS nuôi cấy có nguồn gốc từ bệnh nhân vết thương mạn tính. Tuy nhiên, hiệu quả của LLLT phụ thuộc vào bước sóng, tăng cao nhất ở bước sóng 670 và 780nm.
#Laser công suất thấp #nguyên bào sợi #vết thương mạn tính
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG LASER DIODE SAU PHẪU THUẬT NHỔ RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI MỌC LỆCH NGẦM TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103
Tạp chí Y - Dược học quân sự - Tập 48 Số 7 - Trang 74-83 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả sử dụng laser diode công suất thấp sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới (RKHD) mọc lệch, ngầm tại Bệnh viện Quân y 103. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp lâm sàng có đối chứng trên 90 bệnh nhân (BN) được phân bố ngẫu nhiên thành 2 nhóm có chỉ định được nhổ RKHD mọc lệch, ngầm tại Bộ môn - Khoa Răng - Miệng, Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y từ tháng 9/2022 - 6/2023. Nhóm 1 không chiếu Laser diode vào huyệt ổ răng sau nhổ răng; nhóm 2 chiếu Laser diode vào huyệt ổ răng sau nhổ răng. Đánh giá các đặc điểm về mức độ đau sau 2 giờ, 4 giờ, 6 giờ và đau, sưng, khít hàm sau phẫu thuật sau 1 ngày, 2 ngày và 7 ngày sau phẫu thuật ở 2 nhóm BN. Kết quả: Số viên thuốc giảm đau trung bình phải sử dụng ở nhóm BN không chiếu laser là 2,29 ± 1,85 viên trong khi số viên thuốc giảm đau trung bình phải sử dụng ở nhóm BN chiếu laser là 0,49 ± 0,73. Có sự giảm đáng kể (p < 0,05) về mức độ sưng, đau, khít hàm giữa nhóm được chiếu Laser diode công suất thấp so với nhóm chứng tại thời điểm ngày thứ nhất và ngày thứ hai sau phẫu thuật. Kết luận: Sau phẫu thuật nhổ RKHD mọc lệch, ngầm được sử dụng laser công suất thấp có tác dụng làm giảm mức độ sưng, mức độ đau và khít hàm.
#Laser diode răng khôn hàm dưới #Bệnh viện Quân y 103 #Công suất thấp #Độ rộng phổ
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ DI CHUYỂN RĂNG TRONG CHỈNH HÌNH RĂNG MẶT BẰNG LASER DIODE TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ
Đặt vấn đề: Chỉnh hình răng mặt là điều trị chuyên sâu trong răng hàm mặt, nhằm phục hồi thẩm mỹ gương mặt và chức năng của hệ thống nhai. Tuy nhiên, một trong những quan tâm chính của bệnh nhân chỉnh hình là thời gian điều trị. Laser công suất thấp là một trong những quan điểm điều trị hỗ trợ đầy hứa hẹn nhằm rút ngắn thời gian điều trị bởi đây là phương pháp không xâm lấn, dễ sử dụng và không đòi hỏi những máy móc đắt tiền. Mục tiêu: 1. Xác định và so sánh trung bình khoảng cách tích lũy di xa răng nanh giữa nhóm sử dụng laser công suất thấp và nhóm chứng ở các thời điểm T1 (sau 4 tuần), T2 (sau 8 tuần), T3 (sau 12 tuần). 2. Xác định và so sánh trung bình độ rộng khoảng di xa răng nanh giữa nhóm sử dụng laser công suất thấp và nhóm chứng giữa các thời điêm T1-TO (bắt đầu di xa răng nanh), T2-T1, T3-T2. 3. Xác định và so sánh tốc độ di chuyển răng nanh giữa nhóm sử dụng laser công suất thấp và nhóm chứng tại thời điểm T3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mù đôi có nhóm chứng với thiết kế nửa miệng trên 16 bệnh nhân điều trị chỉnh hình có chỉ định nhổ răng cối nhỏ thứ nhất hàm trên bên phải và trái để tạo khoảng cho việc điều trị chỉnh hình. Trên mỗi bệnh nhân, răng nanh bên phải hoặc bên trái ở hàm trên sẽ được lựa chọn ngẫu nhiên để đưa vào nhóm có sử dụng laser (nhóm 1), răng nanh còn lại sẽ được đưa vào nhóm chứng (nhóm 2). Sự di chuyển răng được đánh giá trên mẫu hàm sau khi bắt đầu kéo lui răng nanh ở các thời điểm: 4 tuần, 8 tuần và 12 tuần. Kết quả nghiên cứu: Khoảng cách tích lũy di xa răng nanh ở nhóm laser (sau 4 tuần: 0,84 ± 0,08 mm, sau 8 tuần: 1,71 ± 0,12 mm, sau 12 tuần: 2,56 ± 0,11 mm) lớn hơn nhóm chứng (sau 4 tuần: 0,80 ± 0,07mm, sau 8 tuần: 1,66 ± 0,11 mm, sau 12 tuần: 2,38 ± 0,12 mm). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê sau 12 tuần (p<0,05). Độ rộng khoảng di xa răng nanh mỗi 4 tuần ở nhóm laser (4 tuần đầu: 0,84 ± 0,08 mm, 4 tuần giữa: 0,87 ± 0,86 mm, 4 tuần cuối: 0,85 ± 0,72 mm) lớn hơn nhóm chứng (4 tuần đầu: 0,80± 0,07mm, 4 tuần giữa: 0,86 ± 0,10 mm, 4 tuần cuối: 0,72 ± 0,08 mm). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở 4 tuần giữa và 4 tuần cuối (p < 0,001). Tốc độ di chuyển răng nanh ở nhóm laser (0,853 mm/tháng) nhanh hơn so với nhóm chứng (0,795 mm/tháng). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Kết luận: laser công suất thấp có thể làm tăng tốc độ di chuyển răng nanh và có thể được xem như một phương pháp hỗ trợ trong điều trị chỉnh hình truyền thống bằng mắc cài.
#liệu pháp laser công suất thấp #chỉnh nha #di chuyển răng
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VẢY NẾN MẢNG BẰNG LASER CÔNG SUẤT THẤP NỘI MẠCH
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 77 - Trang 350-355 - 2024
Đặt vấn đề: Vảy nến là một bệnh viêm mạn tính tác động hệ thống đến nhiều cơ quan và có ảnh hưởng đến khoảng 2% dân số trên thế giới. Vảy nến mảng là dạng lâm sàng thường gặp nhất của bệnh. Bên cạnh các phương pháp điều trị dùng thuốc, laser công suất thấp nội mạch được biết đến như một liệu pháp hỗ trợ với bước sóng từ 632,8nm-670nm và công suất từ 0-6 mW tác động điều hòa miễn dịch, tăng vi tuần hoàn. Tuy nhiên, có rất ít những nghiên cứu về hiệu quả của phương pháp này tại Việt Nam. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân vảy nến mảng và đánh giá kết quả điều trị tại chỗ vảy nến mảng bằng laser công suất thấp nội mạch tại Bệnh viện Da liễu Cần Thơ năm 2023. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Cần Thơ, gồm 76 bệnh nhân được chẩn đoán vảy nến mảng, được điều trị bằng laser nội mạch. Bệnh nhân được ghi nhận lại các đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị bệnh tại thời điểm điều trị 5,7,10 và 12 tuần. Thời gian nghiên cứu là năm 2022-2023. Kết quả: Vị trí thương tổn hiện tại ở da đầu chiếm tỷ lệ cao nhất (92,1%). Hiệu quả điều trị đáng kể được ghi nhận sau 5 lần chiếu với tỉ lệ giảm PASI 32,89% và tỉ lệ này tiếp tục tăng dần sau các lần điều trị. Sau khi kết thúc điều trị, ghi nhận đa số bệnh nhân đều có sự cải thiện với tỉ lệ 97,7% bệnh nhân đạt hiệu quả từ trung bình đến tốt. Kết luận: Bệnh vảy nến phân bố ở mọi lứa tuổi, sang thương tập trung nhiều nhất ở da đầu; laser nội mạch là một phương pháp hiệu quả trong điều trị vảy nến mảng với tỉ lệ giảm PASI tăng dần sau các lần điều trị.
#Bệnh vảy nến #laser nội mạch #bệnh viêm mạn tính
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIẢM Ê BUỐT TRÊN RĂNG CỐI NHỎ VÀ RĂNG CỐI LỚN BẰNG LASER CÔNG SUẤT THẤP
Đặt vấn đề: Ê buốt răng hay quá cảm ngà là một vấn đề răng miệng phổ biến, có thể dễ dàng chẩn đoán được nhưng khó điều trị triệt để. Hiện nay, đã có nhiều phương pháp điều trị quá cảm ngà được đưa ra, trong đó sử dụng laser công suất thấp là phương pháp mới, mang nhiều ưu điểm và cần được nghiên cứu nhiều hơn. Mục tiêu: Xác định đặc điểm lâm sàng, một số yếu tố liên quan và đánh giá kết quả giảm ê buốt trên vùng răng cối nhỏ và răng cối lớn bằng laser công suất thấp. Đối tượng và phương pháp: 101 bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên với 236 răng cối nhỏ và răng cối lớn được chia làm 2 nhóm điều trị (n=118 mỗi nhóm): nhóm I (laser diode 810nm, 0,5W) và nhóm II (kem GC Tooth Mousse) từ tháng 01/2021 đến tháng 6/2022 tại bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ trên, đánh giá ê buốt răng bằng kích thích hơi. Kết quả: Tuổi trung bình là 33,35±13,5 tuổi. Tỷ lệ nữ chiếm 57,4%, nam chiếm 42,6%, đa số vị trí ê buốt ở cổ răng (98,3%), yếu tố khởi phát ê buốt răng phổ biến nhất là kích thích lạnh (88,1%), chải răng ngang (81,2%) là yếu tố nguy cơ chính liên quan tình trạng ê buốt răng. Ở cả hai nhóm đều có hiệu quả giảm ê buốt răng tại các thời điểm tức thì và 3 tháng sau điều trị (p<0,001). Hiệu quả giảm ê buốt răng của nhóm I và nhóm II tương đương nhau tại thời điểm 3 tháng sau điều trị (Điểm số VAS: 2,72± 2,31 và 3±2,1, p=0,14). Tỷ lệ điều trị thành công của nhóm I là 70,4% ngay sau điều trị và 78% sau 3 tháng điều trị. Kết luận: Người trưởng thành có thói quen chải răng ngang dễ mắc ê buốt răng hơn, đặc biệt ở vùng cổ răng. Laser công suất thấp (810nm, 0,5W) có hiệu quả giảm ê buốt răng tức thì và sau 3 tháng.
#Ê buốt răng #quá cảm ngà #laser công suất thấp #laser diode
Nghiên cứu biến đổi hóa mô miễn dịch và siêu cấu trúc mô tại chỗ vết thương thực nghiệm sau chiếu laser công suất thấp
Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng - Số 3 - Trang 30-44 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm hình thái hóa mô miễn dịch và siêu cấu trúc mô tại chỗ vết thương thực nghiệm sau chiếu Laser công suất thấp (780nm, liều 3 J/cm2).Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu trên 30 thỏ, mỗi thỏ tạo 2 vết thương ở đối xứng 2 bên lưng có đường kính 2R = 4cm: vết thương A (được điều trị bằng Laser công suất thấp, bước sóng 780nm, liều 3 J/cm2 với thời gian chiếu 72 giây, 1 lần/ngày), vết thương B (chứng: không chiếu Laser). Các vết thương được thay băng và chiếu Laser 1 lần/ngày theo quy trình cho đến khi tổn thương biểu mô hóa hoàn toàn. Sinh thiết vết thương được lấy vào thời điểm: trước điều trị (D0), sau điều trị 7 ngày (D7), sau điều trị 14 ngày (D14). Kết quả: Hình ảnh hóa mô miễn dịch tại D7, D14 cho thấy vùng chiếu Laser công suất thấp xuất hiện nhiều tế bào nội mô mạch máu (+) với CD34 và các nguyên bào sợi, tế bào cơ trơn thành mạch (+) SMA nhiều hơn khi so với bên vùng chứng. Trên hình ảnh siêu cấu trúc truyền qua (TEM) thời điểm D7 cho thấy vùng chiếu Laser công suất thấp còn ít tổn thương phá hủy mô hơn bên chứng và có hình ảnh tái tạo mô. Đến D14, tốc độ tái tạo mô bên vùng chiếu Laser công suất thấp mạnh hơn vùng không chiếu, tăng hoạt động các bào quan nguyên bào sợi (ty thể, lưới nội chất có hạt) và tăng chế tiết collagen ra chất nền ngoại bào.Kết luận: Laser công suất thấp (780nm, liều 3 J/cm2) làm tăng quá trình liền vết thương trên mô hình thỏ thực nghiệm, kích thích tăng sinh mạch máu và tăng sinh nguyên bào sợi tổng hợp collagen.
#Laser công suất thấp #hóa mô miễn dịch
27. Ứng dụng kỹ thuật Laser công suất thấp và Led trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân mắc Covid-19 mức độ trung bình
Mục tiêu nghiên cứu là đánh giá bước đầu kết quả ứng dụng của laser công suất thấp và LED hỗ trợ điều trị bệnh nhân COVID-19 mức độ trung bình. Nghiên cứu mô tả cắt ngang, dữ liệu được thu thập tiến cứu tại Bệnh viện điều trị người bệnh COVID-19 từ tháng 10/2021 đến tháng 10/2022. Bệnh nhân được điều trị theo phác đồ chuẩn kết hợp thêm liệu pháp laser – LED hàng ngày và được theo dõi cho đến khi ra viện. Nghiên cứu thu thập được 28 bệnh nhân, tuổi trung bình 59,6 ± 15,0; 42,9% chưa tiêm vaccin và 64,3% có bệnh nền. Lúc vào viện 57,1% có suy hô hấp cần hỗ trợ, điểm tổn thương phổi trung bình là 5,7±2,8; 25% có cơn bão cytokin. Thời gian điều trị laser công suất thấp và LED trung bình là 8 ngày; thời gian nằm viện trung bình là 9 ngày, không bệnh nhân nào chuyển nặng, tử vong. Tất cả bệnh nhân COVID-19 mức độ trung bình được điều trị chuẩn kết hợp liệu pháp laser – LED không chuyển nặng, sống mà không có tác dụng không mong muốn nào được ghi nhận.
#COVID-19 mức độ trung bình #laser công suất thấp #LED #Bệnh viện Đại học Y Hà Nội #Bệnh viện điều trị người bệnh COVID-19
Tổng số: 9   
  • 1