Scholar Hub/Chủ đề/#lấy tuỷ buồng/
Lấy tuỷ buồng là quá trình gỡ bỏ các tế bào tuỷ sống từ trong xương trụ của người hoặc động vật, thông qua một thủ thuật phẫu thuật. Quá trình này thường được thực hiện nhằm mục đích thu thập tuỷ để sử dụng trong việc tạo tế bào gốc, dùng cho điều trị các bệnh liên quan đến hệ thống tuỷ sống, chẳng hạn như ung thư máu, bệnh bạch cầu, bệnh tim mạch, hoặc các bệnh đa chứng nội tiết. Quá trình lấy tuỷ buồng cũng có thể được thực hiện cho mục đích nghiên cứu y học.
Quá trình lấy tuỷ buồng được thực hiện dưới sự điều chỉnh của một bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật. Quá trình này thường được tiến hành trong một phòng mổ hoặc phòng thực hiện chẩn đoán hình ảnh.
Trước khi quá trình lấy tuỷ buồng diễn ra, bệnh nhân thường được chuẩn bị bằng cách cho dùng thuốc gây mê để đảm bảo không có đau hoặc khó chịu trong quá trình thực hiện. Điều này có thể được thực hiện bằng cách tiêm chất gây mê vào tĩnh mạch hoặc sử dụng gây mê định vị.
Sau đó, bác sĩ sẽ sử dụng một kim mỏng và đặc biệt để tiến vào lòng ngực hoặc xương chậu, hai nơi phổ biến để lấy tuỷ buồng. Quá trình này có thể gây một số đau nhức hoặc áp lực tạm thời. Một lượng nhỏ tuỷ buồng sẽ được thu thập thông qua kim và đưa vào một ống nghiệm.
Sau quá trình thu thập, tuỷ buồng được xử lý và lưu trữ trong điều kiện phù hợp để sử dụng cho mục đích điều trị hoặc nghiên cứu y học.
Quá trình lấy tuỷ buồng có thể gây ra một số tác dụng phụ như đau, chảy máu, sưng, nhiễm trùng hoặc tác động đến tĩnh mạch. Tuy nhiên, các tác dụng phụ này thường không nghiêm trọng và được điều trị hiệu quả. Bạn nên thảo luận với bác sĩ của mình để hiểu rõ hơn về quá trình này và tác động của nó trước khi quyết định thực hiện.
Quá trình lấy tuỷ buồng có thể được thực hiện theo hai phương pháp chính: lấy tuỷ buồng từ xương chậu hoặc lấy tuỷ buồng từ xương ống tay hoặc chân.
1. Lấy tuỷ buồng từ xương chậu: Đây là phương pháp lấy tuỷ buồng phổ biến nhất. Quá trình bắt đầu bằng việc sát trùng khu vực xương chậu và tiêm thuốc gây tê vào da và cơ xương chậu để giảm đau và khó chịu.
Sau đó, bác sĩ sẽ sử dụng một kim dài và mỏng được điều chỉnh kỹ thuật để tiến vào xương chậu. Các tế bào tuỷ buồng sẽ được hút ra thông qua kim và thu vào ống chứa. Quá trình này có thể gây đau, nhức và áp lực tạm thời, nhưng nó thường chỉ kéo dài trong một vài phút.
2. Lấy tuỷ buồng từ xương ống tay hoặc chân: Đây là phương pháp lấy tuỷ buồng ít phổ biến hơn và thường được sử dụng khi không thể lấy từ xương chậu hoặc khi cần lượng tủy buồng lớn hơn. Quá trình này tương tự như phương pháp lấy từ xương chậu, nhưng thay vì xương chậu, bác sĩ sẽ định vị và tiêm thuốc gây tê vào xương ống tay hoặc chân. Sau đó, một kim dài và mỏng sẽ được gắn vào xương để thu thập tủy buồng.
Trong cả hai phương pháp, sau khi lấy tuỷ buồng, mẫu tủy buồng sẽ được xử lý và lưu trữ trong điều kiện phù hợp. Nếu quá trình được thực hiện để thu thập tế bào gốc tuỷ, chúng có thể được sử dụng cho các loại điều trị như ghép tủy xương hoặc điều trị các bệnh liên quan đến hệ tuỷ, chẳng hạn như ung thư máu, bệnh bạch cầu hay bệnh thiếu máu.
Quá trình lấy tuỷ buồng thường được thực hiện bởi các chuyên gia phẫu thuật trong môi trường bệnh viện hoặc trung tâm y tế chuyên về điều trị ung thư và bệnh huyết học. Bạn nên thảo luận cụ thể với bác sĩ của mình và yêu cầu họ giải thích quá trình chi tiết, phương pháp ưu tiên và tác dụng phụ có thể xảy ra.
Diagnostik und Therapie des zentralen Hypogonadismus beim Mann Reproduktionsmedizin - - Trang 79-86 - 2001
N. Bliesener, L. Redel, D. Klingmüller
Hypogonadismus beschreibt beim Mann eine Störung der endokrinen und/oder exokrinen Testesfunktion. Der primäre wird vom zentralen Hypogonadismus unterschieden. Beim primären Hypogonadismus sind die Hoden unmittelbar geschädigt und die Gonadotropine werden ungebremst, verstärkt sezerniert (hypergonadotroper Hypogonadismus). Der zentrale Hypogonadismus wird durch hypothalamische oder hypophysäre Störungen unterschiedlichster Ätiologie verursacht. GnRH bzw. LH und FSH werden vermindert gebildet (hypogonadotroper Hypogonadismus). Die häufigsten angeborenen Formen des zentralen Hypogonadismus sind der idiopathische hypogonadotrope Hypogonadismus (IHH) und das Kallmann-Syndrom; ein erworbener zentraler Hypogonadismus wird am häufigsten durch Hypophysenadenome verursacht. Die Klinik des zentralen Hypogonadismus wird bestimmt durch Ausmaß und Manifestationszeitpunkt des Testosteronmangels und die Störung der Spermatogenese. Wegen der langsamen Entwicklung der körperlichen Veränderungen kommt der Anamnese eine besondere Bedeutung zu. Die Diagnose wird durch die Bestimmung von Testosteron und Gonadotropinen gesichert, dabei ist Testosteron subnormal, LH und FSH subnormal bis normal. Aufgrund der vielfältigen Ursachen kann eine umfangreiche Diagnostik notwendig werden. Eine Therapie wird nach Diagnostik und ggf. Behandlung einer dem Hypogonadismus zugrunde liegenden Erkrankung eingeleitet. Bei Kinderwunsch besteht die Möglichkeit einer Fertilitätsbehandlung mit hCG/hMG, bzw. der pulsatilen Gabe von GnRH. Besteht kein Kinderwunsch, wird Testosteron substituiert; hierbei finden intramuskuläre, orale oder transdermaler Applikationsarten Verwendung.
Clinical evaluation of ankle arthrodesis with Ilizarov fixation and internal fixation BMC Musculoskeletal Disorders - - Trang 1-8 - 2019
Piotr Morasiewicz, Maciej Dejnek, Wiktor Orzechowski, Wiktor Urbański, Mirosław Kulej, Szymon Łukasz Dragan, Szymon Feliks Dragan, Łukasz Pawik
Ankle arthrodesis may have internal or external stabilization. We assessed whether the type of stabilization after ankle arthrodesis will affect: (1) functional outcome in Foot and Ankle Ability Measure (FAAM) scale, (2) pain level, (3) period of hospitalization, (4) rate of complications. We retrospectively studied 47 individuals after ankle arthrodesis with Ilizarov fixation (group 1, n = 21) and internal stabilization (group 2, n = 26) at our institution in years 2007–2015. Clinical outcomes were measure by: (1) functional outcome in FAAM scale, (2) pain level, (3) period of hospitalization, (4) rate of complications. Total number of complications in Ilizarov group was 13, which corresponded to 0.62 complications per patient on average. In group 2 there were 15 complications, which corresponded to 0.58 complications per patient on average. The intergroup difference in rate of complications was not statistically significant (p = 0.066). In group 1 the mean VAS pain level before treatment was 4.69 and after treatment was 1.5 (p = 0.037). In group with internal stabilization the mean VAS pain level before treatment was 4.71 and after treatment was 2.9 (p = 0.044). In group 1 the mean period of hospitalization was 5.29 days, in group 2 was 5.71 days (p = 0.517). In group 1 the mean functional outcome in FAAM scale was 79.38, in group 2 was 70.11 (p = 0.458). Ankle arthrodesis with Ilizarov stabilization is associated with lower prevalence of VAS pain level after surgery than after internal screws stabilization. Rate of complications, FAAM functional score and period of hospitalization were not statistically significant between group 1 and 2. Clinical outcome was satisfactory in group 1 and 2, but outcomes in Ilizarov group were slightly better than after internal stabilization.
Expression of RAD51, BRCA1 and P53 does not correlate with cellular radiosensitivity of normal human fibroblasts Irish Journal of Medical Science - - Trang 715-720 - 2010
E. M. Y. Saleh, R. A. E. El-Awady
To evaluate the potential role of key DNA repair proteins in the sensitivity of normal human fibroblasts to ionising radiations. Radiosensitivity of six human fibroblast strains established from skin biopsies of women who had undergone conservative breast surgery and received a curative breast conserving radiotherapy was measured by colony-formation assay. The expression level of RAD51, BRCA1 and p53 proteins were studied using western blot analysis. The six fibroblast strains represent a typical spectrum of normal human radiosensitivity with the surviving fraction measured for a dose of 3.5 Gy (SF3.5) ranging from 0.21 to 0.40. We found that these differences in cell survival did not correlate with the expression of RAD51, BRCA1 nor p53 in the tested normal human fibroblast strains. We conclude that measurement of protein expression of the three tested genes (RAD51, BRCA1 and p53) did not reflect sensitivity of normal fibroblasts to IR.