Scholar Hub/Chủ đề/#il36rn/
Il-36RN (Interleukin-36 receptor antagonist) là một protein được tìm thấy trong hệ thống miễn dịch của con người. Nó được thiết kế để liên kết với và ức chế hoạ...
Il-36RN (Interleukin-36 receptor antagonist) là một protein được tìm thấy trong hệ thống miễn dịch của con người. Nó được thiết kế để liên kết với và ức chế hoạt động của một loại tế bào miễn dịch gọi là tế bào Th17, giúp điều chỉnh phản ứng viêm nhiễm trong cơ thể. Cụ thể, Il-36RN có vai trò là một chất chống viêm trong quá trình miễn dịch.
Để cung cấp các chi tiết về Il-36RN, dưới đây là thông tin cụ thể về chức năng và vai trò của nó:
1. Chức năng: Il-36RN là một receptor antagonist, có nghĩa là nó kết hợp với receptor của interleukin-36 (IL-36) và ngăn chặn truyền tín hiệu của IL-36. Khi IL-36 kích hoạt receptor, nó gây ra sự kích thích và phản ứng viêm nhiễm trong cơ thể. Il-36RN giữ vai trò chống viêm bằng cách ngăn chặn sự kích hoạt của IL-36, giúp tăng cường hệ thống miễn dịch trong việc kiểm soát viêm nhiễm.
2. Vai trò trong viêm nhiễm: Khi cơ thể phản ứng với vi khuẩn, virus hoặc tổn thương, các tế bào miễn dịch sẽ sản xuất và giải phóng IL-36 để kích hoạt phản ứng viêm nhiễm. Tuy nhiên, sự chất béo không kiểm soát của IL-36 có thể gây ra phản ứng viêm nhiễm quá mức, gây tổn thương và viêm nhiễm dự phòng trong cơ thể. Il-36RN giúp điều chỉnh sự kích hoạt của IL-36 và giữ cân bằng giữa viêm nhiễm và phản ứng miễn dịch.
3. Sự liên quan với các bệnh lý: Một số nghiên cứu đã chỉ ra vai trò quan trọng của Il-36RN trong các bệnh lý viêm da như viêm da tự miễn (psoriasis) và viêm dạ dày ruột (inflammatory bowel disease). Trong những trường hợp này, có sự tăng cường của IL-36, gây ra phản ứng viêm nhiễm dự phòng quá mức. Il-36RN được nghiên cứu trong một số nghiên cứu lâm sàng nhằm tìm hiểu khả năng điều trị các bệnh lý này bằng cách ngăn chặn IL-36.
Trên thực tế, Il-36RN đang được nghiên cứu làm mục tiêu trong phát triển các loại thuốc chống viêm nhằm điều trị các bệnh lý liên quan đến phản ứng viêm nhiễm quá mức.
Il-36RN, còn được gọi là IL-1F5, là một protein màu trắng có kích thước khoảng 17 kilodalton. Nó là một cytokine thuộc họ interleukin-1 (IL-1) và được tổng hợp và tiết ra bởi nhiều loại tế bào miễn dịch, bao gồm tế bào dendritic, tế bào macrophage và tế bào da.
Một trong những chức năng quan trọng của Il-36RN là điều chỉnh phản ứng viêm nhiễm. Khi có một vi khuẩn, virus hoặc tổn thương, tế bào miễn dịch sẽ sản xuất Il-36RN để kiểm soát sự phát triển của phản ứng viêm nhiễm và tiếp tục đấu tranh chống lại các tác nhân gây bệnh. Il-36RN hoạt động bằng cách kết hợp với receptor IL-36 (bao gồm IL-36R và IL-1Rrp2), ngăn chặn tín hiệu truyền từ IL-36 và giảm viêm nhiễm trong quá trình phản ứng miễn dịch.
Ngoài chức năng chống viêm, Il-36RN cũng có khả năng kích thích sự phân chia tế bào và tăng cường sự tồn tại của tế bào dendritic, tế bào T và tế bào B, góp phần quan trọng vào hoạt động miễn dịch tự nhiên và thụ động.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng Il-36RN có thể liên quan đến một số bệnh lý viêm nhiễm, bao gồm psoriasis, bệnh Crohn và viêm loét dạ dày ruột. Việc tăng cường hoặc giảm nguy cơ IL-36RN trong một số trường hợp có thể cung cấp thông tin quan trọng về sự phát triển và tiến triển của các bệnh lý này.
Dựa trên tác dụng điều chỉnh viêm nhiễm của Il-36RN, nhiều nghiên cứu đang tiếp tục khám phá khả năng sử dụng nó như một mục tiêu trong phát triển các loại thuốc chống viêm và điều trị các bệnh viêm nhiễm khác.
Correlation of IL36RN mutation with different clinical features of pustular psoriasis in Chinese patientsSpringer Science and Business Media LLC - Tập 308 - Trang 55-63 - 2015
Different studies have reported various values for the percentage of patients with IL36RN mutations, and it has also been reported that the sites of these mutations differ among different ethnicities. The current study was a cross-sectional study conducted to investigate the risk factors predicting IL36RN mutation in Chinese patients with different clinical features of pustular psoriasis. 57 Han Chinese patients, including 32 with generalized pustular psoriasis, 14 with palmoplantar pustulosis, 9 with plaque-type psoriasis with pustules, and 2 with erythrodermic psoriasis, were enrolled between March 2013 and July 2014. Blood samples were collected, genomic DNA was extracted from leukocytes, and polymerase chain reaction (PCR)-based Sanger sequencing was used to analyze the coding exons and flanking introns of the IL36RN gene. The patients with generalized pustular psoriasis exhibited the highest IL36RN mutation rate (75 %) among the aforementioned patient types, with the subgroup consisting of those patients who had features of acrodermatitis continua of Hallopeau exhibiting the highest c.115+6T>C mutation rate (93.8 %). In addition, early onset, ever generalized pustular psoriasis (more than two attacks), ever acrodermatitis continua of Hallopeau, inverse psoriasis, and a family history of pustular psoriasis were associated with IL36RN mutation. The c.115+6T>C mutation was the most common and the most important variant in all subtypes of pustular psoriasis with IL36RN mutations among our sample of Chinese patients.
Đột biến gen IL36RN, CARD14 và mối liên quan với một số đặc điểm cận lâm sàng ở bệnh vảy nến thể mủ tại Việt NamMục tiêu: Khảo sát mối liên quan giữa đột biến gen IL36RN và CARD14 với một số thay đổi cận lâm sàng của bệnh vảy nến thể mủ. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 64 bệnh nhân vảy nến mủ tại Bệnh viện Da liễu Trung ương và Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh. Các bệnh nhân được thu thập mẫu máu để làm các xét nghiệm cận lâm sàng: Bạch cầu máu, CRP, albumin máu. Sau đó lấy thêm mẫu máu (2ml) để tiến hành giải trình tự xác định các đột biến trên gen IL36RN và CARD14 tại Trung tâm Y sinh học phân tử, Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả: Tỷ lệ tăng bạch cầu máu ≥ 15.000/mm3 xuất hiện nhiều hơn ở những bệnh nhân mang kiểu đột biến c.1641C>T của gen CARD14. Tỷ lệ giảm albumin máu < 3,8g/dL xuất hiện ít hơn ở những bệnh nhân mang kiểu đột biến c.1753G>A của gen CARD14. Kết luận: Các kiểu đột biến của gen CARD14 cho thấy mối liên quan với một số thay đổi cận lâm sàng của vảy nến mủ như: Tăng bạch cầu máu ≥ 15.000/mm3, giảm albumin máu < 3,8g/dL.
#Vảy nến mủ #đột biến gen #IL36RN #CARD14 #cận lâm sàng
Tỷ lệ và các kiểu đột biến gen IL36RN và CARD14 ở bệnh nhân vảy nến thể mủ ở Việt NamMục tiêu: Xác định tỷ lệ và các kiểu đột biến gen IL36RN và CARD14 ở bệnh nhân vảy nến thể mủ ở Việt Nam. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 64 bệnh nhân vảy nến mủ tại Bệnh viện Da liễu Trung ương và Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh. Các bệnh nhân sẽ được lấy mẫu máu (2ml) và tiến hành giải trình tự xác định các đột biến trên gen IL36RN và CARD14 tại Trung tâm Y sinh học phân tử, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả: Tỷ lệ đột biến gen IL36RN và CARD14 ở bệnh nhân vảy nến thể mủ ở Việt Nam lần lượt là 50% và 78,1%. Tỷ lệ đột biến gen IL36RN đơn thuần là 15,62%, đột biến CARD14 đơn thuần là 43,75%, và có 34,38% bệnh nhân mang cả 2 loại đột biến nói trên. Ở gen IL36RN, các kiểu đột biến thường gặp là c.115+6T>C (32,8%) và c.227C>T (17,2%). Đáng chú ý kiểu đột biến c.227C>T luôn đi kèm với đột biến c.115+6T>C. Ở gen CARD14, các kiểu đột biến thường gặp là: c.1641C>T (39,1%), c.1753G>A (28,2%), c.2458C>T (64,1%). Kết luận: Các đột biến gen IL36RN và CARD14 chiếm tỉ lệ khá cao trong các trường hợp vảy nến mủ ở Việt Nam.
#Vảy nến mủ #đột biến gen #IL36RN #CARD14