Epstein barr virus là gì? Các công bố khoa học về Epstein barr virus
Epstein-Barr virus (EBV) là một loại virus thuộc họ herpes, được cho là gây ra nhiều bệnh lý khác nhau ở con người. EBV thường gây nhiễm trùng hô hấp đường hô h...
Epstein-Barr virus (EBV) là một loại virus thuộc họ herpes, được cho là gây ra nhiều bệnh lý khác nhau ở con người. EBV thường gây nhiễm trùng hô hấp đường hô hấp trên, gây ra bệnh viêm tuyến nước bọt (mononucleosis hạch) và có thể liên quan đến nhiều nguyên nhân khác nhau như ung thư hạch tạng, bệnh Hodgkin, bệnh ổ bụng và một số bệnh lý khác. Virus này được truyền qua tiếp xúc với dịch cơ thể, nước bọt và máu người nhiễm mắc EBV.
Epstein-Barr virus (EBV), hay còn được gọi là virus Herpes 4, là một loại virus ADN thuộc họ của virus Herpes. Nó xuất hiện phổ biến ở khắp nơi trên thế giới và có khả năng lây lan qua tiếp xúc với nước bọt, dịch cơ thể và máu của người nhiễm virus.
EBV gây ra nhiều bệnh lý ở con người, nhưng phổ biến nhất là bệnh viêm tuyến nước bọt (hay mononucleosis hạch). Bệnh viêm tuyến nước bọt thường xảy ra ở người trẻ và dễ nhận biết qua các triệu chứng như sốt, mệt mỏi, hạch to và viêm họng. Trạng thái viêm tuyến nước bọt thường tự giảm đi trong vòng 2-4 tuần, tuy nhiên, cơ thể vẫn mang theo EBV suốt đời và virus có thể trở thành tiền đề cho các vấn đề sức khỏe khác sau này.
Ngoài ra, EBV cũng liên quan đến nhiều bệnh lý nghiêm trọng khác. Chẳng hạn, EBV có liên quan đến một số trường hợp bệnh ung thư hạch tạng, bao gồm ung thư Burkitt, lymphoma B lớn cùng, và ung thư thế tủy Burkitt-like. Nó cũng có thể gây bệnh Hodgkin, bệnh ổ bụng và một số bệnh lý khác liên quan đến hệ thống miễn dịch yếu.
EBV được chẩn đoán thông qua xét nghiệm máu để phát hiện vi khuẩn tăng cao và sự hiện diện của kháng thể chống EBV. Hiện chưa có vắc xin đặc trị cho EBV và điều trị mụn nước bọt thường tập trung vào việc giảm triệu chứng và hỗ trợ miễn dịch của cơ thể.
Tuy EBV có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe, nhưng phần lớn người nhiễm virus không gặp phải triệu chứng nghiêm trọng và hồi phục hoàn toàn sau một thời gian.
EBV là một trong những loại virus phổ biến nhất ở con người, và 90% dân số trên thế giới đã tiếp xúc với nó vào cuối tuổi thiếu niên. Virus này chủ yếu lây nhiễm qua tiếp xúc gần gũi với điển hình là qua nước bọt, nước miếng và dịch cơ thể của người nhiễm EBV.
Khi vào cơ thể, EBV tấn công các tế bào B trong hệ thống miễn dịch và gây sự thay đổi di truyền trong chúng. Nó lây lan thông qua tế bào B và có thể nằm ẩn trong cơ thể suốt đời mà không gây triệu chứng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, EBV có thể tái phát và gây ra các vấn đề sức khỏe.
Bệnh viêm tuyến nước bọt (mononucleosis hạch) là một trong những biểu hiện thường gặp nhất khi nhiễm EBV. Triệu chứng bao gồm sốt, đau họng, mệt mỏi, phù hợp hạch và viêm tuyến nước bọt. Mononucleosis hạch thường tự giảm và hồi phục sau một thời gian. Tuy nhiên, có thể mất từ vài tuần đến vài tháng để khỏi hoàn toàn.
EBV cũng được liên kết với nhiều bệnh lý nghiêm trọng khác. Nó có thể gây ra ung thư hạch tạng như ung thư Burkitt, lymphoma B lớn cùng, và bệnh tế bào B lymphoma. Nó cũng có thể liên quan đến ung thư Hodgkin, ung thư thế tủy Burkitt-like, và các bệnh nhiễm trùng và viêm nhiễm khác trong trường hợp hệ thống miễn dịch yếu.
Để chẩn đoán EBV, bác sĩ thường dựa vào triệu chứng lâm sàng, kết quả xét nghiệm huyết thanh, và xét nghiệm di truyền. Trong trường hợp nhiễm EBV, xét nghiệm máu thường cho thấy số lượng tế bào B tăng lên và sự hiện diện của kháng thể chống EBV trong máu.
Hiện chưa có phương pháp điều trị đặc trị cho EBV. Điều trị dựa trên việc giảm triệu chứng, nghỉ ngơi, sử dụng thuốc giảm đau và một chế độ ăn uống và lối sống lành mạnh để hỗ trợ hệ thống miễn dịch. Trong trường hợp bệnh tương đối nghiêm trọng hoặc liên quan đến các biến chứng, có thể cần hỗ trợ y tế chuyên sâu.
Tóm lại, EBV là một loại virus phổ biến và có thể gây ra nhiều bệnh lý khác nhau. Quan trọng là duy trì lối sống lành mạnh, hạn chế tiếp xúc với dịch cơ thể của người nhiễm EBV và tìm kiếm sự chăm sóc y tế khi có các triệu chứng liên quan.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "epstein barr virus":
Kháng thể kháng bổ thể huỳnh quang (ACIF) đã được sử dụng để nghiên cứu các kháng nguyên sửa đổi bổ thể của các dòng tế bào lymphoblastoid người. Các dòng tế bào này mang bộ gen virus Epstein‐Barr (EBV) mặc dù chỉ có các văn hóa sản xuất mới tổng hợp các kháng nguyên đặc hiệu EBV (kháng nguyên vỏ virus, VCA và kháng nguyên sớm, EA) có thể phát hiện được thông qua huỳnh quang trực tiếp và gián tiếp, thường ở mức dưới 5% số tế bào. Thử nghiệm ACIF đã tiết lộ một kháng nguyên nằm trong nhân của các tế bào lymphoblastoid. Trái ngược với EA và VCA, kháng nguyên này có mặt ở trên 90% số tế bào của cả các văn hóa sản xuất và không sản xuất. Kháng nguyên đã được chứng minh là đặc hiệu đối với EBV bằng cách so sánh phản ứng của 52 huyết thanh trong thử nghiệm ACIF. Những huyết thanh tạo ra phản ứng nhân chứa kháng thể chống lại VCA, EA hoặc các kháng nguyên có thể phát hiện qua các thử nghiệm sửa đổi bổ thể trên các chiết xuất tế bào, nhưng các huyết thanh không có kháng thể EBV không tạo ra phản ứng. Các phản ứng yếu, không rõ ràng hoặc không đồng nhất xảy ra với sáu huyết thanh có mức độ thấp trong các thử nghiệm VCA, EA hoặc sửa đổi bổ thể. Các dòng tế bào được thu nhận bằng cách chuyển đổi tế bào lymphocyte người và linh trưởng do EBV gây ra đã cho phản ứng nhân. Các tế bào kiểm soát không có liên kết rõ ràng với EBV thì không có phản ứng. Những tế bào này bao gồm lymphocyte thai nhi được chuyển đổi bằng phytohaemagglutinin, các dòng tế bào từ ung thư vú, glioma, glia bình thường, viêm màng phổi ác tính và đa u tủy, cùng với hai dòng lymphoid marmoset mang virus Herpesvirus saimiri (HVS). Trong các thí nghiệm sơ bộ, thử nghiệm ACIF đã được sử dụng như một công cụ để theo dõi bộ gen EBV ở mức độ tế bào. Các tế bào từ hai mẫu sinh thiết u lympho Burkitt, một mẫu được thử nghiệm sau sinh thiết và một mẫu sau khi được truyền trong chuột nude, đã chứa một kháng nguyên đặc hiệu EBV. Ba dòng tế bào thu được từ các hợp nhất tế bào soma chuột và một dòng tế bào lymphoblastoid người cũng chứa kháng nguyên này, nhưng số lượng tế bào phản ứng khác nhau giữa các dòng. Một dòng thứ tư không có phản ứng.
Virus Epstein-Barr (EBV) gây ra lymphoma tế bào tủy vô hại có thể gây tử vong cho đến 25% trẻ em nhận ghép tủy xương từ những người hiến tặng không có liên quan hoặc không tương thích HLA. Bởi vì biến chứng này có vẻ phát sinh từ sự thiếu hụt tế bào T độc đặc hiệu với EBV, chúng tôi đã đánh giá sự an toàn và hiệu quả của các dòng tế bào T đa dòng (CD4+ và CD8+) lấy từ người hiến tặng như là một biện pháp phòng ngừa miễn dịch và điều trị cho lymphoma liên quan đến EBV. Chín mươi chín bệnh nhân được xem là có nguy cơ cao bị lymphoma do EBV đã nhận từ 2 đến 4 lần truyền tĩnh mạch tế bào lympho T đặc hiệu với EBV từ người hiến tặng, sau khi họ đã nhận tủy xương đã được tách tế bào T từ những người hiến tặng không tương thích HLA (n = 33) hoặc thành viên trong gia đình không tương thích (n = 6). Các hiệu ứng miễn dịch của liệu pháp này đã được theo dõi trong và sau các lần truyền. Các tế bào truyền vào được xác định qua việc phát hiện gen dấu hiệu neo. Tế bào T đặc hiệu với EBV mang dấu hiệu neo đã được xác định trong tất cả trừ 1 bệnh nhân. Phân tích DNA theo chuỗi đã phát hiện gen dấu hiệu trong thời gian dài tới 18 tuần trong các tế bào đơn nhân máu ngoại vi không bị can thiệp và kéo dài tới 38 tháng trong các dòng tế bào T độc đặc hiệu với EBV đã được tái tạo. Sáu bệnh nhân (15.5%) có lượng DNA-EBV tăng mạnh tại thời điểm vào học (>2,000 bản sao genome/106 tế bào đơn nhân), cho thấy sự nhân bản EBV không kiểm soát, một biến chứng có mối tương quan cao với sự phát triển sau này của bệnh lymphoma rõ ràng. Tất cả các bệnh nhân này đều có sự giảm 2 đến 4 log trong nồng độ DNA virus trong vòng 2 đến 3 tuần sau khi truyền và không ai phát triển lymphoma, xác nhận hoạt động kháng virus của tế bào từ người hiến tặng. Không có tác dụng độc hại nào có thể quy cho liệu pháp tế bào T phòng ngừa. Hai bệnh nhân khác không nhận liệu pháp phòng ngừa và phát triển lymphoma tế bào tủy rõ ràng đã phản ứng hoàn toàn với việc truyền tế bào T. Các dòng tế bào T đa dòng lấy từ người hiến tặng đặc hiệu với các protein của EBV có thể được sử dụng một cách an toàn để phòng ngừa lymphoma tế bào tủy do EBV sau khi ghép tủy xương đồng loại và cũng có thể hiệu quả trong điều trị bệnh đã thiết lập.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10