Springer Science and Business Media LLC
Công bố khoa học tiêu biểu
* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo
Sắp xếp:
Thay đổi hình thái của vị trí khoang choroid tập trung Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 257 - Trang 2111-2117 - 2019
Nghiên cứu thay đổi hình thái của khoang choroid tập trung (FCE). Hồ sơ y tế của 18 bệnh nhân FCE (25 mắt) đã được xem xét hồi cứu. Các đặc điểm lâm sàng cũng như hình ảnh đáy mắt, chụp mạch huỳnh quang đáy mắt (FFA), chụp mạch indocyanine green (ICGA), và chụp quang học kiểu kết không phổ (OCT) đã được phân tích. Hình ảnh OCT được sử dụng như một tiêu chí chính để đánh giá các thay đổi xảy ra trong thời gian theo dõi. Trong số 18 bệnh nhân, 9 là nam và 9 là nữ. Tuổi trung bình là 41 ± 13.5 tuổi. Thời gian theo dõi trung bình là 38.5 ± 24.7 (7–92) tháng. Mười ba bệnh nhân bị cận thị. FCE xuất hiện từ sự không đều nhẹ về sắc tố cho đến mảng màu trắng vàng. FFA cho thấy các khuyết tật tương ứng với tổn thương. Hình ảnh ICGA giai đoạn đầu cho thấy sự giảm huỳnh quang và các mạch máu choroid có kích thước trung bình đến lớn. Sự tăng huỳnh quang giống như mảng hoặc chấm được thấy trên hình ảnh giai đoạn muộn. Quét OCT cho thấy 11 bệnh nhân có FCE một bên và 7 bệnh nhân bị ảnh hưởng hai bên. Hai mươi ba mắt có một FCE và hai mắt còn lại có 2 khoang. FCE xuất hiện như loại xác nhận ở 21 mắt và loại không xác nhận ở 3 mắt. Sự gián đoạn của vùng tương tác, vùng hình ellipsoid, và vùng biểu mô sắc tố võng mạc/phức hợp Bruch được tìm thấy. Độ dày choroid trung bình dưới vùng fovea là 312.06 ± 66.12 μm ở những mắt FCE. Trong thời gian theo dõi, sự hình thành mạch choroid đã phát triển ở 4 bệnh nhân và sự gián đoạn biểu mô sắc tố võng mạc đã trở nên trầm trọng hơn ở một mắt. Không phát hiện thấy sự thay đổi rõ rệt ở những mắt khác trên hình ảnh quét B của OCT, nhưng thể tích của FCE có thể đã thay đổi một chút. FCE, cả loại xác nhận và loại không xác nhận, có thể giữ nguyên trong một thời gian dài.
#Focal choroidal excavation #morphological changes #optical coherence tomography #choroidal neovascularization #retinal pigment epithelium.
Antwort an Herrn Prof. Schiess
Springer Science and Business Media LLC - Tập 30 - Trang 293-294 - 1884
Über die experimentelle Erzeugung von angeborenem Star bei Hühnern und seine Vererbung
Springer Science and Business Media LLC - Tập 118 - Trang 401-442 - 1927
Untersuchungen über den Antikörpergehalt der Hornhaut nach lokaler Antibiotica-Medikation
Springer Science and Business Media LLC - Tập 161 - Trang 51-63 - 1959
In gleicher Weise über beide Hornhäute mit Typhusvaccine bzw. Rinderserumalbumin immunisierte Kaninchen wurden in 3 Gruppen geteilt. Die erste Gruppe (A) diente als Kontrollgruppe und wurde nicht weiter behandelt. Den Tieren der zweiten Gruppe (B) wurde gleichzeitig mit der ersten Antigeninjektion in ein Auge 1×100000 E Penicillin subkonjunktival injiziert, in das andere Auge nur eine physiologische NaCl-Lösung. Den Tieren der dritten Gruppe (C) wurde gleichzeitig mit jeder der 3 Antigeninjektionen 20000 E Penicillin und zusätzlich am zweiten bzw. vierten Tag nach der letzten Antigeninjektion neuerlich 20000 E injiziert (Gesamtmenge 100000 E); das andere Auge wurde wieder nur mit subkonjunktivalen physiologischen NaCl-Injektionen behandelt. Die Hornhautextrakte der einmal mit einer hohen Dosis Penicillin behandelten Augen zeigten ebenso wie die Hornhautextrakte der Augendie mit mehreren kleineren Dosen Penicillin behandelt worden warenweder gegenüber dem nur mit physiologischer NaCl behandelten Kontrollauge, noch gegenüber den entsprechenden Werten der Vergleichsgruppe einen signifikanten Unterschied im Agglutinin- bzw. Präcipitingehalt. Der Agglutinin- bzw. Präcipitingehalt des Serums der penicillin-behandelten Tiere zeigten ebenfalls gegenüber den entsprechenden Werten der Kontrollgruppe keinen signifikanten Unterschied. Unsere Ergebnisse für Penicillin stehen in bezug auf die gefundenen Antikörperwerte im Serum in Übereinstimmung mit jenen Autoren, die keine Änderung der Immunitätsreaktionen nach Antibiotica-(Penicillin-)Anwendung sahen. Untersuchungen über die Frage der Beeinflussung des Antikörpergehaltes von Augengeweben durch Antibiotica lagen unseres Wissens bis jetzt nicht vor.
Comparison of 1-year surgical outcomes of combined cataract surgery and gonioscopy-assisted transluminal trabeculotomy (GATT) versus cataract surgery and iStent Inject
Springer Science and Business Media LLC - Tập 259 - Trang 3035-3044 - 2021
Evaluate the efficacy, safety, and complication rates of phacoemulsification cataract surgery when combined with either gonioscopy-assisted transluminal trabeculotomy (GATT) or iStent Inject. This is a retrospective case-control study to compare the surgical outcomes of combined phacoemulsification cataract surgery with either GATT (phaco-GATT) or iStent Inject (phaco-iStent). Both groups had at least 1-year follow-up. The primary outcome measures were IOP and number of glaucoma medications (NGMs) at 1 year. Secondary outcomes measures were best corrected visual acuity (BCVA) and intra- or postoperative complications within the first year of follow-up. Success was defined as intraocular pressure (IOP) < 21 mmHg and ≥ 20% reduction in IOP at 1 year regardless of the NGM. Each group included 37 patients. The median baseline IOP (24 vs 17) and NGM (3 vs 2) were higher in the phaco-GATT group (p < 0.001). Phaco-GATT achieved a 38% (p < 0.0001) reduction in IOP compared to 13.2% (p < 0.001) in the phaco-iStent group at 1-year follow-up. The reduction in IOP and NGM was significantly higher in the phaco-GATT group (p < 0.01). After adjusting for baseline IOP, the reduction in IOP at 12 months was still significantly higher in the phaco-GATT group (p = 0.042). At 1 year, 86.4% of patients in the phaco-GATT group met the success criteria compared to 35.1% in the phaco-iStent group. Safety outcomes were slightly favourable in the phaco-iStent group. Phaco-GATT and phaco-iStent showed a significant reduction in IOP and NGM, with phaco-GATT having a significantly higher reduction. Phaco-iStent appears to have a higher safety profile and is probably preferable in monocular patients and those with a high risk of bleeding.
Ueber den hinteren Abscess der Cornea und die Frühperforation der Membrana Descemeti
Springer Science and Business Media LLC - - 1901
Xenogene Hornhaut-Transplantation
Springer Science and Business Media LLC - Tập 185 - Trang 235-244 - 1972
Xenogene, interlamelläre Hornhaut-Transplantate wurden mit einer speziell dafür entwickelten Methode bei LEW-Ratten durchgeführt, um erstmals an Inzuchttieren die transplantationsimmunologischen Vorgänge bei der Keratoplastik verfolgen zu können. Die Transplantatreaktionen wurden mit dem Spaltlampenmikroskop beobachtet und nach Ausmaß und Geschwindigkeit der Vascularisation, Zeitpunkt der Eintrübung und Abstoßung des Transplantates in 5 Grade eingeteilt und ausgewertet: 1. 20 Meerschweinchen-Hornhaut-Transplantate auf unvorbehandelten Empfängern waren nach 26–33 Tagen unter Ulceration abgestoßen. 2. Transplantate auf aktiv sensibilisierten Empfängern wurden nach 7–12 Tagen, d.h. signifikant beschleunigt abgestoßen, in 15/15 Fällen nach Haut-Transplantation und in 8/8 Fällen nach Hornhaut-Transplantation in das andere Auge. 3. Transplantate auf passiv sensibilisierten Empfängern wurden ebenfalls beschleunigt abgestoßen: i.v. Injektion von 2,5 bzw. 7,5 ml LEW-anti-Meerschweinchenhaut-Serum bewirkte bei je 6 Versuchstieren Transplantatabstoßung nach 19–22 Tagen; Injektion von 2,5×108 Lymphknotenzellen syngener, aktiv sensibilisierter Tiere bewirkte bei 5/5 Tieren etwa dieselbe Beschleunigung; Kombination von 2,5 ml Antiserum mit 2,5×108 Zellen bewirkte in 6/6 Fällen Transplantatabstoßung nach 9–11 Tagen, d.h. signifikant stärkere Beschleunigung. Der Nachweis des second-set-Phänomens sowie die Übertragbarkeit gesteigerter Reaktionsfähigkeit durch Serum, lymphatische Zellen und insbesondere durch deren Kombination werden als Beweis immunologischer Reaktivität bei xenogener Keratoplastik angesehen.
Assessment of cataract surgery outcomes in Nampula (Mozambique): visual acuity, visual function and quality of life
Springer Science and Business Media LLC - Tập 261 - Trang 1597-1608 - 2023
Despite advances in surgical techniques, cataract remains the leading cause of preventable blindness, and massive surgeries have been adopted as a strategy to change this situation. Monitoring the results of cataract surgeries has become imperative to ensure their quality. Therefore, this study aims to assess the cataract surgery outcomes performed at the Central Hospital of Nampula Mozambique. This is a prospective and longitudinal study in which translation, cultural adaptation and validation of the visual function (VF) and quality of life (QoL) questionnaire were performed. The appearance, content, construct, criterion, internal consistency and responsiveness were validated using the most common methods and indicators. Visual acuity (VA), VF and QoL were evaluated on 447 patients before and after surgery by t-test and effect sizes. VF and QoL questionnaires showed one-dimension, good values of TLI (0.973, 0.951) and SRMR (0.057, 0.054), and for each item, weights > 0.7, H2 > 0.5, ranges > 5.8 and the RMSEA < 0.08. Correlations for criterion validity were high and for responsiveness were high for QoL and moderate for VF one and the ordinal Cronbach’s alpha coefficients were greater than 0.97. Difference between VA, VF and QoL before and after surgery was statistically significant (p < 0.001). After surgery, 74.3% of patients had good, 23.5% had borderline and 2.2% had poor VA. The cataract surgery outcomes are outside the WHO recommendations regarding VA, but they have had a great impact on improving VF and QoL. The questionnaires showed excellent psychometric properties and should be used in daily clinical practice to evaluate the results of cataract surgeries.
Tổng số: 10,967
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10