Springer Science and Business Media LLC
1471-2482
Cơ quản chủ quản: BMC , BioMed Central Ltd.
Các bài báo tiêu biểu
Dính nội tạng là các dải mô sẹo xơ, thường là kết quả của phẫu thuật, hình thành giữa các cơ quan và mô nội tạng, làm cho chúng kết nối với nhau một cách bất thường. Dính sau phẫu thuật xảy ra thường xuyên sau phẫu thuật ổ bụng và đi kèm với gánh nặng kinh tế lớn. Nghiên cứu này xem xét gánh nặng bệnh nhân nội trú của phẫu thuật cắt dính tại Hoa Kỳ (tức là số lượng và tỷ lệ sự kiện, chi phí, thời gian nằm viện [LOS]).
Dữ liệu xuất viện của bệnh nhân với phẫu thuật cắt dính chính và thứ phát đã được phân tích sử dụng Dự án Chi phí và Sử dụng Dịch vụ Y tế Quốc gia (Healthcare Cost and Utilization Project) năm 2005. Các quy trình được tổng hợp theo hệ thống cơ thể.
Chúng tôi xác định được 351.777 ca nhập viện liên quan đến phẫu thuật cắt dính: 23,2% cho phẫu thuật cắt dính chính và 76,8% cho phẫu thuật cắt dính thứ phát. Thời gian nằm viện trung bình là 7,8 ngày cho phẫu thuật cắt dính chính. Chúng tôi nhận thấy rằng 967.332 ngày chăm sóc được phân bổ cho các quy trình liên quan đến phẫu thuật cắt dính, với tổng chi phí nội trú lên tới 2,3 tỷ USD (1,4 tỷ USD cho phẫu thuật cắt dính chính; 926 triệu USD cho phẫu thuật cắt dính thứ phát). Số lần nhập viện vì phẫu thuật cắt dính tăng đều theo độ tuổi và cao hơn ở phụ nữ. Trong số các quy trình cắt dính thứ phát, 46,3% liên quan đến hệ sinh sản nữ, dẫn đến 57.005 ngày chăm sóc bổ sung và 220 triệu USD chi phí phát sinh.
Phẫu thuật cắt dính vẫn là một vấn đề phẫu thuật quan trọng tại Hoa Kỳ. Nhập viện vì tình trạng này dẫn đến chi phí phẫu thuật trực tiếp cao, điều này nên được các nhà cung cấp và người thanh toán quan tâm.
Ở bệnh nhân bị xơ gan, quá trình tổng hợp các yếu tố đông máu có thể không đủ, phản ánh qua thời gian prothrombin kéo dài. Mặc dù các yếu tố chống đông cũng bị giảm, nhưng tình trạng mất máu trong quá trình ghép gan chính thống vẫn có thể quá mức. Hiện tại, việc mất máu trong ghép gan chính thống được quản lý thông qua truyền các chế phẩm như bạch cầu hồng cầu, tiểu cầu, huyết tương tươi đông lạnh và nồng độ fibrinogen. Tuy nhiên, việc truyền những sản phẩm này có thể dẫn đến xu hướng chảy máu tăng do tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Hiệu quả cầm máu của các sản phẩm này có thể bị che lấp bởi các biến chứng chảy máu do quá tải thể tích.
Ngược lại với các sản phẩm truyền máu này, nồng độ phức hợp prothrombin là một chế phẩm tinh khiết với thể tích thấp, chứa bốn yếu tố đông máu phụ thuộc vitamin K. Các nghiên cứu trước đây đã gợi ý rằng việc sử dụng nồng độ phức hợp prothrombin là một phương pháp hiệu quả để bình thường hóa thời gian prothrombin kéo dài ở bệnh nhân bị xơ gan. Chúng tôi nhằm nghiên cứu xem việc sử dụng nồng độ phức hợp prothrombin trước phẫu thuật ở bệnh nhân ghép gan do xơ gan giai đoạn cuối có phải là một phương pháp an toàn và hiệu quả để giảm thiểu mất máu trong và sau phẫu thuật, cũng như nhu cầu truyền máu hay không.
Đây là một thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, đa trung tâm và có đối chứng giả dược.
Các bệnh nhân xơ gan có INR kéo dài (≥1.5) sẽ được phân ngẫu nhiên giữa việc nhận giả dược hoặc nồng độ phức hợp prothrombin trước khi phẫu thuật. Dữ liệu về nhân khẩu học, phẫu thuật và truyền máu sẽ được ghi nhận. Kết quả chính của nghiên cứu này là nhu cầu truyền RBC.
Bệnh nhân xơ gan giai đoạn tiến triển có mức độ protein đông máu và chống đông trong huyết tương bị giảm. Nồng độ phức hợp prothrombin là một sản phẩm huyết tương thể tích thấp chứa cả protein đông máu và chống đông, và việc truyền chế phẩm này sẽ không ảnh hưởng đến tình trạng thể tích trước khi thực hiện phẫu thuật. Chúng tôi giả thuyết rằng việc sử dụng nồng độ phức hợp prothrombin sẽ dẫn đến giảm thiểu mất máu trong và sau phẫu thuật cũng như nhu cầu truyền máu. Về lý thuyết, việc sử dụng nồng độ phức hợp prothrombin có thể liên quan đến nguy cơ cao hơn về các biến chứng huyết khối tắc mạch. Do đó, các biến chứng huyết khối tắc mạch sẽ là một điểm kết thúc phụ quan trọng và việc xuất hiện loại biến chứng này sẽ được theo dõi chặt chẽ trong suốt quá trình nghiên cứu.
Thử nghiệm này đã được đăng ký tại
Bệnh tuyến giáp là một vấn đề phổ biến trong dân số cao tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh suy giáp và bướu tuyến giáp nhiều nhân tăng dần theo tuổi. Với sự gia tăng của dân số già, chúng tôi đã thực hiện một cuộc tổng quan tài liệu về khả năng thực hiện phẫu thuật tuyến giáp ở bệnh nhân cao tuổi.
Chúng tôi đã tiến hành tìm kiếm tài liệu trong cơ sở dữ liệu PubMed vào tháng 9 năm 2012 và thu thập tất cả các công bố bằng tiếng Anh về cắt tuyến giáp ở bệnh nhân cao tuổi từ năm 2002. Các bài báo gốc có tiềm năng tập trung chủ yếu vào cắt tuyến giáp ở bệnh nhân cao tuổi đã được xác định và toàn văn được lấy và xem xét để lấy dữ liệu thêm.
Chúng tôi đã tìm thấy năm bài báo dựa trên các điểm gốc khác nhau. Bốn bài là các nghiên cứu hồi cứu không được phân ngẫu nhiên và một bài là nghiên cứu tiến cứu không được phân ngẫu nhiên. Cuối cùng, các độ tuổi 65, 70, 75 và 80 được sử dụng làm ngưỡng tuổi. Tất cả các nghiên cứu đều đánh giá chỉ định phẫu thuật cắt tuyến giáp ở bệnh nhân cao tuổi, tỷ lệ mắc bệnh và tử vong sau phẫu thuật. Chỉ có một nghiên cứu đánh giá cụ thể tỷ lệ tái nhập viện sau phẫu thuật cắt tuyến giáp ở người già.