Polymer International
SCOPUS (1991-2023)SCIE-ISI
1097-0126
0959-8103
Anh Quốc
Cơ quản chủ quản: WILEY , John Wiley and Sons Ltd
Các bài báo tiêu biểu
Bài tổng quan này đề cập đến các ứng dụng của một số polysaccharides trong lĩnh vực vật liệu sinh học và polymer sinh học. Các polysaccharides tự nhiên từ các nguồn khác nhau đã được nghiên cứu trong một thời gian dài, và các tính chất chính của chúng đã được tóm tắt trong bài viết này; một số dẫn xuất của chúng thu được qua quá trình biến đổi hóa học cũng đã được mô tả. Các polysaccharides chính hiện đang được sử dụng trong lĩnh vực y sinh và dược phẩm bao gồm chitin và dẫn xuất của nó là chitosan, hyaluronan và alginate. Alginate nổi tiếng với khả năng tạo gel vật lý trong sự hiện diện của các ion đối kháng hai hóa trị (Ca, Ba, Sr), trong khi carrageenan tạo thành gel ngược nhiệt; các polysaccharides từ tảo biển này chủ yếu được sử dụng để bao bọc các vật liệu khác nhau (tế bào, vi khuẩn, nấm). Các hệ thống hứa hẹn khác là các phức hợp tĩnh điện hình thành khi một polysaccharide anion được trộn với một polysaccharide cation (ví dụ: alginate/chitosan hoặc hyaluronan/chitosan). Một sự phát triển quan trọng về ứng dụng của các polysaccharides có thể được dự đoán trong những năm tới liên quan đến các tính chất vốn có của chúng như tương thích sinh học và khả năng phân hủy sinh học trong cơ thể người đối với một số polysaccharides; chúng cũng là nguồn tái tạo và sở hữu các tính chất vật lý thú vị (tạo màng, tạo gel và tính năng tạo độ nhớt). Ngoài ra, chúng dễ dàng được chế biến thành nhiều hình thức khác nhau như hạt, màng, viên nang và sợi.
Kể từ khi Kodak có bước đột phá vào năm 1987, diode phát quang hữu cơ (OLED) đã được xem là một trong những công nghệ hứa hẹn nhất cho các màn hình tương lai. Một số vật liệu đã được phát triển và cải tiến nhằm đáp ứng các yêu cầu của ứng dụng này. Các vật liệu này khác nhau không chỉ về cấu trúc mà còn về cơ chế tham gia trong quá trình phát quang điện (phát quang huỳnh quang
Bài báo này trình bày một cái nhìn tổng quan về tài liệu liên quan đến sự phân hủy nhiệt, sự cháy và khả năng chống cháy của elastomer polyurethane (PU), các lớp phủ dựa trên PU, cũng như các loại bọt PU cứng và mềm. Một cái nhìn tổng quan ngắn gọn về cấu trúc của mạng polymer PU sẽ hữu ích để có được sự hiểu biết tốt hơn về các hiện tượng phân hủy nhiệt và sự cháy. Các nguồn tài liệu chủ yếu được trích dẫn từ các công trình xuất bản từ năm 1995 trở đi; tuy nhiên, để mô tả cơ bản về cấu trúc và nguyên lý phân hủy nhiệt, cũng đã trích dẫn một vài công trình cũ hơn. Các phát triển mới trong các chất phụ gia chứa halogen hiệu quả và các copolymer phản ứng cũng được mô tả. Tuy nhiên, những tiến bộ chính trong lĩnh vực PU chống cháy trong những năm gần đây chủ yếu tập trung vào các sản phẩm chứa phốt pho hoặc silicon, đặc biệt là các sản phẩm phản ứng. Các chất phụ gia vô cơ vẫn là đối tượng được quan tâm lớn, đặc biệt là trong các lớp phủ intumescent dựa trên PU. Bản quyền © 2004 Hiệp hội Công nghiệp Hóa chất.
Các cơ chế chống cháy của ba loại phosphat aryl, triphenyl phosphate (TPP), resorcinol bis(diphenyl phosphate) (RDP) và bisphenol A bis(diphenyl phosphate) (BDP), trong hỗn hợp polycarbonate/acrylonitrile–butadiene–styrene (PC/ABS) đã được nghiên cứu và so sánh. Thêm vào đó, ảnh hưởng của polytetrafluorethylene (PTFE) đến độ nhớt và sự phân hủy nhiệt cũng được thảo luận trong hệ thống PC/ABS và PC/ABS + BDP. Các cơ chế được đề xuất dựa trên kết quả của nhiều phương pháp khác nhau. Phân tích trọng lượng theo thời gian, quang phổ hồng ngoại biến đổi Fourier và động học được sử dụng để nghiên cứu quá trình nhiệt phân. Hành vi cháy được nghiên cứu thông qua các phép đo calorimeter hình nón ở các lưu lượng nhiệt khác nhau và độ cháy được xác định bằng chỉ số oxy giới hạn (LOI) và UL 94. Các phép đo lưu biến học được sử dụng để làm rõ hành vi nhỏ giọt đã thay đổi do PTFE. TPP chỉ thể hiện tác động trong pha khí. RDP chủ yếu thể hiện tác động trong pha khí và một số tác động trong pha ngưng tụ. BDP thể hiện tác động quan trọng trong pha ngưng tụ ngoài tác động trong pha khí. TPP và RDP có phần ưu việt hơn về độ cháy (LOI), trong khi BDP thể hiện hiệu suất vượt trội trong quá trình cháy cưỡng bức (calorimeter hình nón). Các hiệu ứng tương hợp giữa PTFE và BDP được tìm thấy. Bản quyền © 2007 Hiệp hội Công nghiệp Hóa chất.
Bài báo này trình bày một cái nhìn tổng quan về các tài liệu gần đây liên quan đến khả năng chống cháy của polycarbonate (PC) và các loại nhựa dựa trên polycarbonate. Một khảo sát ngắn về các cơ chế chính của sự phân hủy nhiệt của PC cũng được trình bày vì nó cung cấp cái nhìn sâu sắc về các cơ chế tác động chống cháy. Chủ yếu các phòng thí nghiệm công nghiệp tham gia vào việc phát triển các chất chống cháy mới cho PC và, ở mức độ thấp hơn nhiều, các phòng thí nghiệm học thuật thực hiện nghiên cứu về các khía cạnh cơ chế của khả năng chống cháy. Số lượng bằng sáng chế được công bố hàng năm về khả năng chống cháy của PC và các hỗn hợp của nó vượt xa số lượng bằng sáng chế về khả năng chống cháy của bất kỳ loại polymer nào khác. Bởi vì PC là một loại polymer có khả năng tạo cháy tự nhiên cao, các chất chống cháy dạng ngưng tụ, đặc biệt là các chất dựa trên phospho, được sử dụng rộng rãi trong các hỗn hợp dựa trên PC. PC đơn thuần có thể vượt qua các bài kiểm tra khả năng chống cháy khắt khe với rất ít sự bổ sung của một số chất chống cháy dựa trên lưu huỳnh hoặc silicone. Bản quyền © 2005 Hiệp hội Công nghiệp Hóa học
Quay tĩnh điện là một phương pháp đã được thiết lập và nghiên cứu sâu, và hiện tại là kỹ thuật duy nhất được biết đến có khả năng tạo ra các sợi nano liên tục. Thách thức lớn nhất liên quan đến quay tĩnh điện là tốc độ sản xuất của nó, so với quy trình quay sợi truyền thống. Tuy nhiên, hiểu biết về khả năng mở rộng quy mô của quy trình quay tĩnh điện vẫn còn rất sơ khai. Việc mở rộng quy mô đáng kể quy trình quay tĩnh điện có thể mở ra cơ hội cho các ứng dụng của các cấu trúc sợi nano (ví dụ: sợi chỉ) mà không thể thực hiện được bằng các quy trình dệt may truyền thống, như dệt, đan và bím. Ở đây, chúng tôi tóm tắt những tiến bộ gần đây liên quan đến việc tăng cường thông lượng quay tĩnh điện, với sự nhấn mạnh đặc biệt vào việc sử dụng nhiều phun từ nhiều kim và bề mặt tự do của dung dịch polymer. Bản quyền © 2009 Hiệp hội Công nghiệp Hóa chất
Các sợi vỏ - lõi hai thành phần đã được chuẩn bị bằng phương pháp kéo sợi nóng chảy thông thường với chip polypropylen và nanoparticle bạc. Các sợi kéo sợi nóng chảy đã được đặc trưng bằng DSC, WAXS và SEM. Tác dụng kháng khuẩn được đánh giá bằng thử nghiệm AATCC 100, một phương pháp định lượng. Kết quả từ đồ thị DSC và dạng tần số tia X cho thấy độ tinh thể của polypropylen, bao gồm cả nanoparticle bạc, đã giảm nhẹ so với sợi polypropylen nguyên chất. Ảnh vi hình SEM cho thấy đường kính trung bình của các nanoparticle bạc khoảng 30 nm và một số hạt đã bị tập hợp. Các sợi có chứa bạc ở phần lõi không cho thấy hiệu ứng kháng khuẩn. Tuy nhiên, các sợi với bạc được thêm vào phần vỏ lại thể hiện hiệu ứng kháng khuẩn xuất sắc. Bản quyền © 2003 Hiệp hội Công nghiệp Hóa chất
Các nanocomposite lai dựa trên montmorillonite (MMT) ưa nước và cao su ethylene–propylene–diene (EPDM) đã được chuẩn bị bằng quy trình trộn nóng chảy. Từ phân tích bằng nhiễu xạ tia X và kính hiển vi điện tử truyền qua, các phân tử cao su được phát hiện là đã được tẩm vào các khoảng giữa của organoMMT và các lớp silicat của organoMMT được phân tán đồng đều dưới dạng các tấm dày 50–80 nm trong ma trận EPDM. Các nghiên cứu cơ học động cho thấy sự tương tác mạnh mẽ giữa cao su và chất độn trong nanocomposite lai, thể hiện qua sự giảm tan δ tại nhiệt độ chuyển pha thủy tinh. Các nanocomposite lai biểu hiện sự cải thiện lớn về cường độ kéo và độ bền xé, cũng như mô đun, cũng như độ giãn dài khi đứt. Hơn nữa, độ thấm khí oxy của nanocomposite lai đã giảm đáng kể.
© 2002 Hội Hóa học Quốc tế