
Journal of acquired immune deficiency syndromes (1999)
SCIE-ISI SCOPUS (1988-1994,1996-2023)
1525-4135
1944-7884
Mỹ
Cơ quản chủ quản: Lippincott Williams and Wilkins Ltd. , LIPPINCOTT WILLIAMS & WILKINS
Các bài báo tiêu biểu
Chưa có thông tin về việc khoảng cách sống còn giữa những người bị nhiễm HIV và những người không bị nhiễm HIV có quyền truy cập dịch vụ chăm sóc có còn tồn tại hay không.
Chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu đoàn hệ trong khuôn khổ Kaiser Permanente California trong giai đoạn 1996–2011, sử dụng bảng tuổi thọ tạm thời để ước lượng số năm sống còn mong đợi (“tuổi thọ”) ở tuổi 20.
Trong số 24,768 người bị nhiễm HIV và 257,600 người không bị nhiễm HIV, có 2229 và 4970 trường hợp tử vong, tương ứng với tỷ lệ tử vong là 1827 và 326 trên 100,000 năm người. Trong giai đoạn 1996–1997, tuổi thọ mong đợi ở tuổi 20 cho những người bị nhiễm HIV và không bị nhiễm HIV lần lượt là 19.1 và 63.4 năm, với khoảng cách là 44.3 năm (khoảng tin cậy 95%: 38.4 đến 50.2). Tuổi thọ mong đợi ở tuổi 20 cho những người bị nhiễm HIV đã tăng lên 47.1 năm vào năm 2008 và 53.1 năm vào năm 2011, thu hẹp khoảng cách xuống còn 11.8 năm (8.9–14.8 năm) vào năm 2011. Trong giai đoạn 2008–2011, tuổi thọ mong đợi ở tuổi 20 cho những người bị nhiễm HIV dao động từ mức thấp nhất là 45.8 năm đối với người da đen và 46.0 năm đối với những người có tiền sử sử dụng thuốc tiêm cho đến mức cao nhất là 52.2 năm đối với người Latinh. Những người bị nhiễm HIV bắt đầu điều trị kháng retrovirus với số CD4 ≥500 tế bào trên một microlit có tuổi thọ mong đợi ở tuổi 20 là 54.5 năm trong giai đoạn 2008–2011, thu hẹp khoảng cách so với những người không bị nhiễm HIV xuống còn 7.9 năm (5.1–10.6 năm). Đối với những người bị nhiễm HIV này, khoảng cách còn thu hẹp thêm ở các nhóm phụ không có tiền sử nhiễm virus viêm gan B hoặc C, hút thuốc, lạm dụng thuốc/alcohol, hoặc bất kỳ yếu tố nguy cơ nào trong số này.
Ngay cả khi được điều trị sớm và có quyền truy cập vào dịch vụ chăm sóc, vẫn tồn tại một khoảng cách 8 năm về tuổi thọ giữa những người bị nhiễm HIV so với những người không bị nhiễm HIV.
Các quần thể người chuyển giới đã bị thiếu vắng trong các nghiên cứu dịch tễ học về HIV và do đó cũng thiếu thốn trong các chương trình phòng ngừa, chăm sóc và điều trị HIV. Từ năm 2012, đã có sự gia tăng đáng kể trong nghiên cứu tập trung vào người chuyển giới. Các nghiên cứu làm nổi bật gánh nặng của bệnh HIV và những yếu tố nguy cơ, bao gồm các định kiến giao thoa, như là động lực của các tình trạng đồng hiện trong các quần thể người chuyển giới. Bài tổng quan này tổng hợp dịch tễ học HIV toàn cầu gần đây và mô tả những khoảng trống hiện tại trong nghiên cứu và can thiệp để thông tin hóa việc ưu tiên nghiên cứu HIV cho các quần thể người chuyển giới.
Một cuộc tổng quan có hệ thống đã được thực hiện đối với tài liệu y khoa được công bố giữa ngày 1 tháng 1 năm 2012 và ngày 30 tháng 11 năm 2015. Dữ liệu tập trung vào tỷ lệ nhiễm HIV, các yếu tố nguy cơ và các tình trạng đồng hiện trong các quần thể người chuyển giới.
Các ước tính thay đổi đáng kể theo vị trí địa lý và tiểu quần thể. Những cá nhân chuyển nữ có tỷ lệ nhiễm HIV tập trung cao nhất trên thế giới với tỷ lệ xác nhận trong phòng thí nghiệm lên tới 40%. Dữ liệu khá hiếm về các cá nhân chuyển nam; tuy nhiên, chúng cho thấy khả năng có nguy cơ cao hơn cho nam chuyển giới có quan hệ tình dục với nam (MSM). Không có dữ liệu về tỷ lệ nhiễm bệnh cho người chuyển giới ở khu vực châu Phi hạ Sahara hoặc đông Âu/trung Á. Các dữ liệu mới nổi liên tục hỗ trợ mối liên hệ của các điều kiện đồng hiện với nguy cơ HIV trong các quần thể người chuyển giới.
Giải quyết các điều kiện đồng hiện và những thách thức đặc thù về giới tính là rất quan trọng để đảm bảo sự tham gia và duy trì trong phòng ngừa HIV bởi các quần thể người chuyển giới. Nghiên cứu trong tương lai nên ưu tiên: lấp đầy các khoảng trống kiến thức trong dịch tễ học HIV; làm rõ cách thức mà định kiến hình thành các yếu tố đồng hiện để tạo ra HIV và những tác động tiêu cực khác đến sức khỏe của người chuyển giới; và hiểu cách thức để thực hiện hiệu quả các can thiệp HIV cho người chuyển giới.