International Endodontic Journal

Công bố khoa học tiêu biểu

* Dữ liệu chỉ mang tính chất tham khảo

Sắp xếp:  
Ảnh hưởng của quy trình ăn mòn axit đối với một số tính chất vật lý của vật liệu tập hợp ba khoáng (MTA) Dịch bởi AI
International Endodontic Journal - Tập 42 Số 11 - Trang 1004-1014 - 2009
Mehmet Baybora Kayahan, M. H. Nekoofar, Meriç Karapınar Kazandağ, Ceyhun Canpolat, Özlem Malkondu, Figen Kaptan, P. M. H. Dummer
Tóm tắt

Mục tiêu Đánh giá ảnh hưởng của quy trình ăn mòn axit đến độ bền nén và độ cứng bề mặt vi mô của vật liệu tập hợp ba khoáng (MTA) màu răng.

Phương pháp MTA ProRoot trắng (Dentsply Tulsa Dental) được trộn và đóng gói vào các ống hình trụ có đường kính 4 mm và chiều cao 6 mm. Ba nhóm, mỗi nhóm có 15 mẫu, đã được thực hiện quy trình ăn mòn axit sau khi trộn ở thời điểm 4, 24 hoặc 96 giờ. Độ bền nén được đo và so sánh với các nhóm đối chứng không ăn mòn. Sự khác biệt giữa các nhóm được phân tích bằng kiểm định Kruskall–Wallis. Một lô mẫu hình trụ khác có đường kính 6 mm và chiều cao 12 mm đã được chuẩn bị để kiểm tra độ cứng bề mặt vi mô. Ba nhóm 15 mẫu đã được thực hiện quy trình ăn mòn axit ở 4, 24 hoặc 96 giờ sau khi trộn. Dữ liệu được phân tích bằng phương pháp ANOVA một chiều.

Kết quả Có một xu hướng chung là độ bền nén và độ cứng bề mặt vi mô của các mẫu tăng lên theo thời gian. Về độ bền nén, sự tăng trưởng này là có ý nghĩa giữa 4 giờ và các khoảng thời gian khác cho cả nhóm thí nghiệm và nhóm đối chứng (P < 0.0001); tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể giữa 24 và 96 giờ. Sự gia tăng độ cứng bề mặt vi mô là có ý nghĩa giữa 4, 24 và 96 giờ (P < 0.0001). Ngoài ra, có một sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm thí nghiệm và nhóm đối chứng ở tất cả các khoảng thời gian (P < 0.0001). Kiểm tra SEM cho thấy sự khác biệt hình thái giữa bề mặt MTA còn nguyên vẹn và đã ăn mòn.

#MTA #ăn mòn axit #độ bền nén #độ cứng bề mặt #vi mô
Đặc trưng sản phẩm hydrat hóa của vật liệu ba oxit khoáng Dịch bởi AI
International Endodontic Journal - Tập 41 Số 5 - Trang 408-417 - 2008
Josette Camilleri
Tóm tắt

Mục tiêu  Đặc trưng hóa các sản phẩm hydrat hóa của vật liệu ba oxit khoáng trắng (MTA).

Phương pháp  Vật liệu ba oxit khoáng, xi măng Portland trắng và oxit bismuth đã được đánh giá thông qua phân tích nhiễu xạ tia X (XRD) và Rietveld XRD. Các loại xi măng được thử nghiệm khi chưa được hydrat hóa và sau quá trình hydrat hóa và bảo dưỡng trong 30 ngày ở 37 °C. Phân tích nước rỉ của xi măng đã được thực hiện hàng tuần trong năm tuần liên tiếp từ ngày pha trộn bằng phương pháp quang phổ phát xạ nguyên tử plasma cảm ứng, sau đó các loại xi măng được quan sát dưới kính hiển vi điện tử quét để đánh giá cấu trúc vi mô của xi măng. Phân tích năng lượng phân tán định lượng bằng tia X đã được thực hiện và các tỷ lệ nguyên tử đã được biểu diễn đồ thị.

Kết quả  Cả xi măng Portland và MTA đều sản xuất silicat canxi hydrat (C-S-H) và hydroxyt canxi (CH) khi hydrat hóa. Mức độ aluminate canxi ba thấp ở MTA dẫn đến việc giảm lượng sản xuất ettringite và monosulphate. Trong quá trình hydrat hóa, mức độ bismuth trong MTA đã hydrat giảm xuống; oxit bismuth thay thế silica trong C-S-H và bị rò rỉ ra ngoài khi C-S-H phân hủy theo thời gian. Cả MTA và xi măng Portland đều giải phóng một lượng lớn ion canxi, lượng này giảm dần trong suốt 5 tuần quan sát.

pH of pus collected from periapical abscesses
International Endodontic Journal - Tập 42 Số 6 - Trang 534-538 - 2009
M. H. Nekoofar, M. Sadegh Namazikhah, M. S. Sheykhrezae, Mahnaz Mohammadi, Ashraf Kazemi, Z. Aseeley, P. M. H. Dummer
Abstract

Aim  To determine the pH of pus collected from periapical abscesses.

Methodology  Forty patients (Male = 17/Female = 23) between the ages 17 and 37 years, each with a periapical abscess and with no relevant medical history, were recruited. All the participants had moderate‐to‐severe pain on percussion accompanied by localized or generalized swelling. At least 1 mL of pus was aspirated from each participant using a No 20 gauge needle. A pH meter was used to define the pH of the pus immediately following aspiration.

Result  The mean pH of pus from the periapical abscesses of patients was 6.68 ± 0.324 with a range between 6.0 and 7.3. There was no statistically significant difference in pH by gender or age.

Conclusion  The mean pH of pus from periapical abscesses was generally acidic, but some samples (two female and three male) were neutral and some samples (four female and one male) were alkaline.

A differential scanning calorimetry study of the setting reaction of MTA
International Endodontic Journal - Tập 43 Số 6 - Trang 509-518 - 2010
Sharath Chandra V. Chedella, David W. Berzins

Chedella SCV, Berzins DW. A differential scanning calorimetry study of the setting reaction of MTA. International Endodontic Journal, 43, 509–518, 2010.

Abstract

Aim  To evaluate the setting of mineral trioxide aggregate (MTA) at various time intervals using differential scanning calorimetry (DSC).

Methodology  Hydrated MTA and Portland cement were examined with DSC at the following intervals: immediate (0 h), 2 h, 4 h, 12 h, 24 h, 1 week, 1 month, 3 months and 1 year. DSC analysis consisted of a temperature scan from 37 to 640 °C, resulting in thermograms with reaction product decomposition endotherms. The thermogram peak attributed to calcium hydroxide product formation was identified and quantified to serve as an indicator of reaction product formation over time. Unmixed powders of both cements and individual components of MTA were also studied using DSC. The results were analysed with repeated measures anova between time intervals and a t‐test between cements.

Results  A low temperature endotherm attributed to various calcium silicate hydrates showed continual maturation of MTA up to 1 year. The rate of calcium hydroxide formation was greatest between 4 and 24 h after mixing with maximum amounts present at 7 days. Specimens aged greater than 1 month showed a decrease in calcium hydroxide content, presumably because of carbonation reactions. Portland cement had similar thermogram peaks, although the amount of calcium hydroxide formed was generally smaller compared to MTA. The endothermic peaks from the various powders and components were helpful in corroborating the peaks formed in the hydrated cements.

Conclusions  Hydration reactions and structure maturation in MTA continue well beyond clinically observed setting times.

Dislocation resistance of ProRoot Endo Sealer, a calcium silicate‐based root canal sealer, from radicular dentine
International Endodontic Journal - Tập 42 Số 1 - Trang 34-46 - 2009
Bradford Huffman, Sui Mai, Lorenzo A. Pinna, R. Norman Weller, Carolyn Primus, James L. Gutmann, D.H. Pashley, Franklin R. Tay
Abstract

Aim  To examine the dislocation resistance of three root canal sealers from radicular dentine with and without immersion in a simulated body fluid (SBF), using a modified push‐out test design that produced simulated canal spaces of uniform dimensions under identical cleaning and shaping conditions.

Methodology  Sixty single‐rooted caries‐free human canine teeth were used. Standardized simulated canal spaces were created using 0.04 taper ProFile instruments along the coronal, middle and apical thirds of longitudinal tooth slabs. Following NaOCl/ethylenediamine tetra‐acetic acid cleaning, the cavities were filled with ProRoot Endo Sealer, AH Plus Jet or Pulp Canal Sealer. After setting, half of the cavities were tested with a fibre‐optic light‐illuminated push‐out testing device. The rest were immersed in SBF for 4 weeks before push‐out evaluation. Failure modes were examined with stereomicroscopy and field emission (FE)‐scanning electron microscopy.

Results  Location of the sealer‐filled cavities did not affect push‐out strengths. ProRoot Endo Sealer exhibited higher push‐out strengths than the other two sealers particularly after SBF storage (P < 0.001). Failure modes were predominantly adhesive and mixed for Pulp Canal Sealer and AH Plus Jet, and predominantly cohesive for ProRoot Endo Sealer. Spherical amorphous calcium phosphate‐like phases that spontaneously transformed into apatite‐like phases were seen in the fractured specimens of ProRoot Endo Sealer after SBF storage.

Conclusions  When tested in bulk without a main core, both ‘sealer type’ and ‘SBF storage’ were significant in affecting push‐out results. The ProRoot Endo Sealer demonstrated the presence of spherical amorphous calcium phosphate‐like phases and apatite‐like phases (i.e. ex vivo bioactivity) after SBF storage.

Comparison of the root-end seal provided by bioceramic repair cements and White MTA
International Endodontic Journal - Tập 44 Số 7 - Trang 662-668 - 2011
Fernanda B. Leal, Gustavo De‐Deus, Claudia Brandão, Aderval S. Luna, Sandra Rivera Fidel, Erick Miranda Souza
Histological and histomorphometrical evaluation of furcation perforations filled with MTA, CPM and ZOE
International Endodontic Journal - Tập 44 Số 2 - Trang 100-110 - 2011
G. F. da Silva, Juliane Maria Guerreiro‐Tanomaru, Estela Sasso‐Cerri, Mário Tanomaru‐Filho, Paulo Sérgio Cerri
Tác động của pH lên độ cứng bề mặt và cấu trúc vi mô của vật liệu trioxide khoáng Dịch bởi AI
International Endodontic Journal - Tập 41 Số 2 - Trang 108-116 - 2008
M. Sadegh Namazikhah, M. H. Nekoofar, Mohammad Saeed Sheykhrezae, S Salariyeh, S. J. Hayes, S. T. Bryant, Mahsa Mohammadi, P. M. H. Dummer
Tóm tắt

Mục tiêu  Đánh giá độ cứng vi bề mặt của các mẫu vật liệu trioxide khoáng (MTA) sau khi bề mặt của chúng tiếp xúc với nhiều môi trường axit khác nhau trong quá trình thủy hóa. Bên cạnh đó, các đặc trưng cấu trúc vi mô của mẫu cũng được nghiên cứu bằng kính hiển vi điện tử quét (SEM).

Phương pháp  MTA ProRoot trắng (Dentsply Tulsa Dental, Johnson City, TN, USA) đã được trộn và đóng vào các ống polycarbonate hình trụ. Bốn nhóm, mỗi nhóm gồm 10 mẫu, đã được hình thành bằng cách sử dụng áp suất 3.22 MPa và được tiếp xúc với pH 4.4, 5.4, 6.4 và 7.4, tương ứng, trong 4 ngày. Độ cứng vi bề mặt của mỗi mẫu đã được đo sau khi tiếp xúc. Bốn nhóm gồm hai mẫu đã được chuẩn bị và xử lý tương tự trước khi tiến hành kiểm tra định tính bằng SEM. Dữ liệu đã được phân tích bằng phương pháp anova một chiều và kiểm định post hoc Tukey.

Kết quả  Giá trị độ cứng bề mặt trung bình cao nhất (53.19 ± 4.124) được quan sát sau khi tiếp xúc với pH 7.4, trong khi giá trị này giảm xuống còn 14.34 ± 6.477 sau khi tiếp xúc với pH 4.4. Sự khác biệt giữa các giá trị này ở khoảng tin cậy 95% (33.39–44.30) là có ý nghĩa thống kê (P < 0.0001). Không có sự khác biệt hình thái rõ ràng giữa các nhóm về cấu trúc vi nội bộ. Tuy nhiên, có một xu hướng được quan sát thấy rằng càng acid hóa dung dịch, độ xốp của các mẫu càng gia tăng.

Kết luận  Dưới các điều kiện của nghiên cứu này, độ cứng bề mặt của MTA đã bị suy giảm trong môi trường axit.

Hợp chất ba oxit khoáng và các xi măng nội nha sinh học khác: tổng quan cập nhật – phần II: các ứng dụng lâm sàng khác và biến chứng Dịch bởi AI
International Endodontic Journal - Tập 51 Số 3 - Trang 284-317 - 2018
Mahmoud Torabinejad, Masoud Parirokh, P. M. H. Dummer
Tóm tắt

Hợp chất ba oxit khoáng (MTA) là vật liệu nha khoa được sử dụng rộng rãi cho các liệu pháp tủy sống (VPT), bảo vệ các giá đỡ trong các quy trình nội nha tái tạo, tạo rào cản ở các răng có tủy hoại tử và chóp mở, sửa chữa các lỗ thủng cũng như trám bít ống tủy và trám bít chóp răng trong các phẫu thuật nội nha. Gần đây, một số xi măng nội nha sinh học (BECs) đã được giới thiệu trên thị trường. Hầu hết những vật liệu này có thành phần bao gồm canxi và silicat; tuy nhiên, tính sinh học tích cực là đặc tính chung của các xi măng này. Các vật liệu này bao gồm: BioAggregate, Biodentine, BioRoot RCS, xi măng hỗn hợp giàu canxi, Endo-CPM, Endocem, EndoSequence, EndoBinder, EndoSeal MTA, iRoot, MicroMega MTA, MTA Bio, MTA Fillapex, MTA Plus, Neo MTA Plus, Ortho MTA, Quick-Set, Retro MTA, Tech Biosealer, và TheraCal LC. Đã có những tuyên bố rằng các vật liệu này có các đặc tính tương tự như MTA nhưng không có những hạn chế. Ở Phần I của bài đánh giá này, thông tin hiện có về thành phần hóa học của các vật liệu nêu trên đã được xem xét và ứng dụng của chúng cho VPT đã được thảo luận. Trong bài viết này, các ứng dụng lâm sàng của MTA và các BEC khác sẽ được xem xét cho việc tạo chóp, nội nha tái tạo, sửa chữa lỗ thủng, trám bít ống tủy, trám bít chóp răng, các quy trình phục hồi, khuyết tật nha chu và điều trị gãy răng theo chiều dọc và ngang. Ngoài ra, tài liệu liên quan đến những hạn chế có thể xảy ra của các vật liệu này sau khi ứng dụng lâm sàng được xem xét. Những hạn chế này bao gồm khả năng đổi màu, tác động toàn thân và khả năng rút lui sau khi sử dụng làm vật liệu trám bít ống tủy. Dựa trên các từ khóa đã chọn, tất cả các công bố đã được tìm kiếm liên quan đến việc sử dụng MTA cũng như BECs cho các ứng dụng lâm sàng liên quan. Nhiều công bố đã được tìm thấy liên quan đến việc sử dụng BEC cho các ứng dụng nội nha khác nhau. Đa số các nghiên cứu này so sánh BEC với MTA. Mặc dù có kết quả đầy hứa hẹn đối với một số vật liệu, số lượng công bố sử dụng BEC cho các ứng dụng lâm sàng khác nhau là hạn chế. Hơn nữa, hầu hết các nghiên cứu đều có một số khiếm khuyết phương pháp luận và bằng chứng thấp.

#Hợp chất ba oxit khoáng #xi măng nội nha sinh học #liệu pháp tủy sống #nội nha tái tạo #sửa chữa lỗ thủng #tác dụng không mong muốn.
Cơ chế hydrat hóa của vật liệu tổng hợp ba khoáng trioxide Dịch bởi AI
International Endodontic Journal - Tập 40 Số 6 - Trang 462-470 - 2007
Josette Camilleri
Tóm tắt

Mục tiêu  Báo cáo cơ chế hydrat hóa của vật liệu tổng hợp ba khoáng trioxide trắng (White MTA, Dentsply, Tulsa Dental Products, Tulsa, OK, USA).

Phương pháp  Thành phần hóa học của White MTA được nghiên cứu bằng cách quan sát bột trong các mặt cắt mài dưới kính hiển vi điện tử quét (SEM). Quá trình hydrat hóa của cả White MTA và xi măng Portland trắng (PC) được nghiên cứu thông qua việc phân tích các sản phẩm hydrat xi măng dưới SEM, lập biểu đồ tỉ lệ nguyên tử, thực hiện các phân tích năng lượng tán xạ với tia X (EDAX) và tính toán lượng khoáng clinke khan bằng phương pháp tính Bogue.

Kết quả  MTA không được hydrat hóa có thành phần chủ yếu là tri-calcium silicate và di-calcium silicate không tinh khiết cùng với bismuth oxide. Giai đoạn aluminate rất hạn chế. Khi hydrat hóa, xi măng PC trắng tạo ra một cấu trúc dày đặc bao gồm calcium silicate hydrate, calcium hydroxide, monosulphate và ettringite là các sản phẩm chính của quá trình hydrat hóa. Hạt xi măng chưa phản ứng được phủ bởi một lớp xi măng đã hydrat hóa. Ngược lại, MTA tạo ra một cấu trúc xốp khi hydrat hóa. Mức độ ettringite và monosulphate rất thấp. Bismuth oxide xuất hiện dưới dạng bột chưa phản ứng nhưng cũng kết hợp với calcium silicate hydrate.

Kết luận  White MTA thiếu alumina gợi ý rằng vật liệu này không được chế biến trong lò quay. Quá trình hydrat hóa đã ảnh hưởng đến việc sản xuất ettringite và monosulphate thường được hình thành trong quá trình hydrat hóa của PC. Bismuth ảnh hưởng đến cơ chế hydrat hóa của MTA; nó tạo thành một phần cấu trúc của C-S-H và cũng ảnh hưởng đến sự kết tủa của calcium hydroxide trong bột đã hydrat hóa. Cấu trúc vi mô của MTA đã hydrat hóa có thể yếu hơn khi so với PC.

Tổng số: 63   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7