Globalization and Health

SSCI-ISI SCIE-ISI SCOPUS (2005-2023)

  1744-8603

 

  Anh Quốc

Cơ quản chủ quản:  BioMed Central Ltd. , BMC

Lĩnh vực:
Public Health, Environmental and Occupational HealthHealth Policy

Các bài báo tiêu biểu

Tỷ lệ căng thẳng, lo âu, trầm cảm trong cộng đồng chung trong đại dịch COVID-19: một nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp Dịch bởi AI
Tập 16 Số 1 - 2020
Nader Salari, Amin Hosseinian‐Far, Rostam Jalali, Aliakbar Vaisi-Raygani, Shna Rasoulpoor, Masoud Mohammadi, Shabnam Rasoulpoor, Behnam Khaledi‐Paveh
Tóm tắt Xuất thân

Các đại dịch COVID-19 đã gây ra ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe tâm thần của công chúng. Do đó, việc giám sát và theo dõi sức khỏe tâm thần của dân cư trong thời gian khủng hoảng như đại dịch là một ưu tiên cấp bách. Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích các công trình nghiên cứu và phát hiện hiện có liên quan đến tỷ lệ căng thẳng, lo âu và trầm cảm trong cộng đồng chung trong thời gian đại dịch COVID-19.

Phương pháp

Trong đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp này, các bài báo tập trung vào tỷ lệ căng thẳng và lo âu trong cộng đồng chung trong thời gian đại dịch COVID-19 đã được tìm kiếm trong các cơ sở dữ liệu Science Direct, Embase, Scopus, PubMed, Web of Science (ISI) và Google Scholar, không có giới hạn thời gian dưới và kéo dài đến tháng 5 năm 2020. Để thực hiện phân tích tổng hợp cho các nghiên cứu thu thập được, mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên đã được sử dụng, và tính không đồng nhất của các nghiên cứu đã được điều tra bằng chỉ số I2. Hơn nữa, phân tích dữ liệu được thực hiện bằng phần mềm Comprehensive Meta-Analysis (CMA).

Kết quả

Tỷ lệ căng thẳng trong 5 nghiên cứu với tổng số mẫu là 9074 được xác định là 29.6% (giới hạn tin cậy 95%: 24.3–35.4), tỷ lệ lo âu trong 17 nghiên cứu với kích thước mẫu là 63,439 là 31.9% (khoảng tin cậy 95%: 27.5–36.7), và tỷ lệ trầm cảm trong 14 nghiên cứu với kích thước mẫu là 44,531 người là 33.7% (khoảng tin cậy 95%: 27.5–40.6).

Kết luận

COVID-19 không chỉ gây ra mối lo ngại về sức khỏe thể chất mà còn dẫn đến một số rối loạn tâm lý. Sự bùng phát của virus corona mới có thể ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của người dân trong các cộng đồng khác nhau. Do đó, việc bảo vệ sức khỏe tâm thần của các cá nhân và phát triển các can thiệp tâm lý có thể cải thiện sức khỏe tâm thần của các nhóm dễ bị tổn thương trong thời gian đại dịch COVID-19 là rất cần thiết.

Tổng quan về gánh nặng các yếu tố nguy cơ tim mạch ở các nước Châu Phi hạ Sahara: một góc nhìn xã hội - văn hóa Dịch bởi AI
- 2009
Rhonda BeLue, Titilayo A. Okoror, Juliet Iwelunmor, Kelly D. Taylor, Arnold Degboe, Charles Agyemang, Gbenga Ogedegbe
Tóm tắt Nền tảng

Các nước Châu Phi hạ Sahara (SSA) hiện đang trải qua một trong những chuyển đổi dịch tễ học nhanh nhất với đặc điểm là đô thị hóa gia tăng và thay đổi trong các yếu tố lối sống. Điều này đã dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ mắc các bệnh không lây nhiễm, đặc biệt là bệnh tim mạch (CVD). Gánh nặng kép của các bệnh truyền nhiễm và bệnh không lây nhiễm mãn tính này có tác động lâu dài đến y tế công cộng vì nó làm suy yếu các hệ thống chăm sóc sức khỏe.

Mục đích

Mục đích của bài báo này là khám phá bối cảnh xã hội - văn hóa trong việc prévenir và điều trị nguy cơ bệnh tim mạch ở Châu Phi hạ Sahara. Chúng tôi thảo luận về các yếu tố nguy cơ cụ thể cho bối cảnh SSA, bao gồm nghèo đói, đô thị hóa, sự phát triển của các hệ thống chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh truyền thống, lối sống và các yếu tố xã hội - văn hóa.

Phương pháp

Chúng tôi đã tiến hành tìm kiếm trên các cơ sở dữ liệu African Journals On-Line, Medline, PubMed và PsycINFO bằng cách sử dụng các tổ hợp từ khóa liên quan đến quốc gia/địa lý, bệnh và các thuật ngữ cụ thể liên quan đến yếu tố nguy cơ như "đái tháo đường và Congo" và "tăng huyết áp và Nigeria". Các bài báo nghiên cứu về các thử nghiệm lâm sàng đã được loại trừ khỏi tổng quan này. Ngược lại, các bài báo báo cáo dữ liệu về tỷ lệ lưu hành và tỷ lệ mắc bệnh tim mạch và/hoặc các bài báo báo cáo về niềm tin và hành vi liên quan đến nguy cơ bệnh tim mạch đã được đưa vào. Cả bài báo định tính và định lượng đều được bao gồm.

Nỗi khổ địa phương và diễn ngôn toàn cầu về sức khỏe tâm thần và nhân quyền: Một nghiên cứu dân tộc học về phản ứng đối với bệnh tâm thần ở nông thôn Ghana Dịch bởi AI
Tập 5 Số 1 - 2009
Ursula M. Read, Edward Adiibokah, Solomon Nyame
Tóm tắt Nền tảng

Phong trào Toàn cầu vì Sức khỏe Tâm thần đã thu hút sự chú ý mới đến sự bỏ bê người bệnh tâm thần trong chính sách y tế toàn cầu. Sự ngược đãi người bị bệnh tâm thần ở nhiều quốc gia có thu nhập thấp được báo cáo rộng rãi trong các bệnh viện tâm thần, trung tâm chữa bệnh không chính thức và các gia đình. Các tổ chức quốc tế đã kêu gọi phát triển luật pháp và chính sách để giải quyết những lạm dụng này. Tuy nhiên, các sáng kiến như vậy tiêu biểu cho một cách tiếp cận từ trên xuống nhằm thúc đẩy nhân quyền, mà lịch sử cho thấy có tác động hạn chế đối với những người đang sống với bệnh tâm thần và gia đình của họ.

Phương pháp

Nghiên cứu này là một phần của một nghiên cứu nhân học dài hạn về những người bị bệnh tâm thần nghiêm trọng ở nông thôn Ghana. Các chuyến thăm đã được thực hiện đến hơn 40 hộ gia đình có thành viên mắc bệnh tâm thần, cũng như các nhà thờ, đền thờ, bệnh viện và phòng khám. Các phương pháp dân tộc học bao gồm quan sát, trò chuyện, phỏng vấn bán cấu trúc và thảo luận nhóm tập trung với những người mắc bệnh tâm thần, người chăm sóc, healer, nhân viên y tế, và các thành viên trong cộng đồng.

Kết quả

Việc xích và đánh đập người mắc bệnh tâm thần được phát hiện là điều phổ biến trong các gia đình và trung tâm điều trị trong các cộng đồng nghiên cứu, bên cạnh việc giữ lương thực ('nhịn ăn'). Tuy nhiên, các phản ứng đối với bệnh tâm thần được nhúng trong các quan điểm tâm linh và đạo đức và sự điều trị này gây ra ít hình phạt tại địa phương. Các gia đình gặp khó khăn trong việc chăm sóc các thành viên bị bệnh tâm thần nặng mà không có sự hỗ trợ đáng kể từ các dịch vụ y tế chính thức. Các dịch vụ tâm thần rất khó tiếp cận, đặc biệt là ở các cộng đồng nông thôn, và cũng bị coi là có giới hạn trong hiệu quả của chúng. Những người chữa bệnh truyền thống và tôn giáo vẫn được ưa chuộng cao mặc dù có tình trạng ngược đãi thường xuyên đối với người bệnh tâm thần trong cơ sở của họ.

#sức khỏe tâm thần #nhân quyền #nghiên cứu dân tộc học #Ghana #điều trị bệnh tâm thần
Fly-By medical care: Conceptualizing the global and local social responsibilities of medical tourists and physician voluntourists
Tập 7 - Trang 1-14 - 2011
Jeremy Snyder, Shafik Dharamsi, Valorie A Crooks
Medical tourism is a global health practice where patients travel abroad to receive health care. Voluntourism is a practice where physicians travel abroad to deliver health care. Both of these practices often entail travel from high income to low and middle income countries and both have been associated with possible negative impacts. In this paper, we explore the social responsibilities of medical tourists and voluntourists to identify commonalities and distinctions that can be used to develop a wider understanding of social responsibility in global health care practices. Social responsibility is a responsibility to promote the welfare of the communities to which one belongs or with which one interacts. Physicians stress their social responsibility to care for the welfare of their patients and their domestic communities. When physicians choose to travel to another county to provide medical care, this social responsibility is expanded to this new community. Patients too have a social responsibility to use their community's health resources efficiently and to promote the health of their community. When these patients choose to go abroad to receive medical care, this social responsibility applies to the new community as well. While voluntourists and medical tourists both see the scope of their social responsibilities expand by engaging in these global practices, the social responsibilities of physician voluntourists are much better defined than those of medical tourists. Guidelines for engaging in ethical voluntourism and training for voluntourists still need better development, but medical tourism as a practice should follow the lead of voluntourism by developing clearer norms for ethical medical tourism. Much can be learned by examining the social responsibilities of medical tourists and voluntourists when they engage in global health practices. While each group needs better guidance for engaging in responsible forms of these practices, patients are at a disadvantage in understanding the effects of medical tourism and organizing responses to these impacts. Members of the medical professions and the medical tourism industry must take responsibility for providing better guidance for medical tourists.
Investment in HIV/AIDS programs: Does it help strengthen health systems in developing countries?
Tập 4 Số 1 - Trang 8 - 2008
Yu Deng, Yves Souteyrand, Mazuwa Banda, Joan Kaufman, Joseph H. Perriëns
Obesity stigma as a globalizing health challenge
Tập 14 Số 1 - 2018
Alexandra Brewis, Cindi SturtzSreetharan, Amber Wutich
Các yếu tố của hệ thống y tế ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, trẻ em và bà mẹ: Nghiên cứu cắt ngang tại các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc Dịch bởi AI
Tập 7 Số 1 - 2011
Katherine A. Muldoon, Lindsay P. Galway, Maya Nakajima, Steve Kanters, Robert S. Hogg, Eran Bendavid, Edward J. Mills
Tóm tắt Mục tiêu

Chưa có nhiều nghiên cứu xem xét mối liên hệ giữa sức mạnh của hệ thống y tế và các kết quả y tế công cộng quan trọng trên toàn cầu. Chúng tôi đã nghiên cứu mối liên quan giữa các chỉ số của hệ thống y tế và tỷ lệ tử vong.

Phương pháp

Chúng tôi đã sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính tác động hỗn hợp để điều tra sức mạnh của mối liên hệ giữa biến đầu ra và các biến giải thích, đồng thời tính đến sự phân bố địa lý của các quốc gia. Chúng tôi đã mô hình hóa tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh (IMR), tỷ lệ tử vong trẻ em (CMR) và tỷ lệ tử vong bà mẹ (MMR) dựa trên 13 biến giải thích theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới.

Kết quả

Các yếu tố bảo vệ hệ thống y tế quan trọng liên quan đến IMR bao gồm mật độ bác sĩ cao hơn (tỷ lệ điều chỉnh [aRR] 0.81; Khoảng tin cậy [CI] 95% 0.71-0.91), khả năng tiếp cận bền vững với nước và vệ sinh cao hơn (aRR 0.85; 95% CI 0.78-0.93), và có một chính phủ ít tham nhũng hơn (aRR 0.57; 95% CI 0.40-0.80). Chi phí tự chi trả cho y tế (aRR 1.29; 95% CI 1.03-1.62) là một yếu tố nguy cơ. Cùng bốn biến này cũng có mối liên quan đáng kể đến CMR sau khi kiểm soát các biến khác. Các yếu tố bảo vệ MMR bao gồm khả năng tiếp cận nước và vệ sinh (aRR 0.88; 95% CI 0.82-0.94), có một chính phủ ít tham nhũng hơn (aRR 0.49; 95%; CI 0.36-0.66), và chi tiêu cho y tế cao trên đầu người (aRR 0.84; 95% CI 0.77-0.92). Tỷ lệ sinh sản cao hơn (aRR 2.85; 95% CI: 2.02-4.00) được tìm thấy là một yếu tố nguy cơ đáng kể cho MMR.

Kết luận

Nhiều chỉ số chính của một hệ thống y tế có thể dự đoán tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, trẻ em và bà mẹ ở cấp quốc gia. Cải thiện khả năng tiếp cận nước và vệ sinh và giảm tham nhũng trong lĩnh vực y tế nên trở thành ưu tiên hàng đầu.

Burgeoning burden of non-communicable diseases in Nepal: a scoping review
Tập 11 Số 1 - 2015
Shiva Raj Mishra, Dinesh Neupane, Parash Mani Bhandari, Vishnu Khanal, Per Kallestrup
Civil society: the catalyst for ensuring health in the age of sustainable development
Tập 12 Số 1 - 2016
Clare Wenham, Kent Buse, Case Gordon