
Foot and Ankle Specialist
SCOPUS (2008-2023)ESCI-ISI
1938-7636
1938-6400
Anh Quốc
Cơ quản chủ quản: SAGE Publications Inc. , SAGE Publications Ltd
Các bài báo tiêu biểu
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định xem liệu ghép da mỏng có thể được sử dụng thành công để đóng kín các vết thương ở bàn chân và mắt cá chân của bệnh nhân tiểu đường hay không. Các tác giả đã xem xét hồi cứu hồ sơ của 100 bệnh nhân liên tiếp đã trải qua phẫu thuật tái xây dựng mô mềm với ghép da mỏng trên bàn chân và/hoặc mắt cá chân tại cơ sở của chúng tôi từ năm 2005 đến 2008. Sau khi áp dụng các tiêu chí loại trừ, còn lại 83 hồ sơ đủ điều kiện. Trong số 83 bệnh nhân, 54 (65%) lành không có biến chứng, 23 (28%) cần ghép lại, và 6 (7%) có biến chứng được giải quyết bằng biện pháp bảo tồn. Tất cả các bệnh nhân đều có kết quả phẫu thuật thành công, được định nghĩa là đã đạt được đóng kín hoàn toàn vết thương tại lần theo dõi cuối cùng. Kết quả phẫu thuật không có mối liên quan đáng kể với tuổi tác, giới tính, chủng tộc, hemoglobin A1C, kích thước vết thương, vị trí vết thương, việc sử dụng ma túy bất hợp pháp, tiền sử cắt cụt, tiền sử Charcot, hoặc nhiễm trùng trước phẫu thuật. Tuy nhiên, các biến chứng ghép sau phẫu thuật có liên quan đáng kể với tiền sử hút thuốc hiện tại hoặc trước đây (P = .016) và mức độ cắt cụt chân trước đó đến nơi mà ghép da mỏng được áp dụng (P = .009). Nghiên cứu này chứng minh rằng việc áp dụng ghép da mỏng với một chế độ chăm sóc sau phẫu thuật phù hợp là một quy trình có lợi để đạt được đóng kín vết thương ở bàn chân và mắt cá chân của bệnh nhân tiểu đường.
Các chấn thương hội chứng bắp chân thường yêu cầu phải nắn chỉnh giải phẫu và cố định. Việc cố định bằng vít ligament thường được sử dụng; tuy nhiên, nó ngăn cản chuyển động sinh lý tại khớp, thường yêu cầu một cuộc phẫu thuật thứ hai để gỡ bỏ vít, và có thể hạn chế khả năng chịu trọng lượng sau phẫu thuật. Dây Chằng Chéo (Ankle Tightrope) (Arthrex, Naples, FL) được giới thiệu để cho phép micromotion sinh lý giữa xương chày và xương mác, giúp cử động khớp mắt cá chân sớm và khả năng chịu trọng lượng mà không cần một cuộc phẫu thuật thứ hai để gỡ bỏ. Đối với các chấn thương Maisonneuve, hoặc bất ổn hội chứng nghiêm trọng hơn, cần một dây chằng chéo thứ hai. Điều này được khuyến nghị đặt cách dây đầu tiên 1 cm và có sự phân kỳ trục trong mặt phẳng ngang để tăng cường sự ổn định xoay. Các loạt nghiên cứu ban đầu đã chỉ ra rằng các biến chứng chính của việc cố định bằng dây chằng chéo là sự lồi của nút thắt hoặc các biến chứng vết thương. Các biến chứng khác đã được ghi nhận bao gồm sự ăn mòn của các nút vào xương, sự nối xương, và sự tách đôi. Đây là báo cáo đầu tiên về việc bị kẹp gân từ nút bên trong. Những lý do cho điều này được thảo luận cùng với những gợi ý cho kỹ thuật phẫu thuật.
Các mức độ bằng chứng: Điều trị, Mức độ IV
Đái tháo đường là nguyên nhân hàng đầu gây ra các ca cắt cụt không do chấn thương. Mặc dù việc đánh giá trong phòng xét nghiệm có thể không đủ để xác định mức độ cắt cụt tối ưu, nhưng việc đánh giá toàn diện một loạt các giá trị xét nghiệm là rất quan trọng cho sự chăm sóc tổng thể của bệnh nhân và có thể đưa bệnh nhân vào phân loại rủi ro. Bài tổng quan hệ thống này phân tích các ấn phẩm liên quan đến các ca cắt cụt ở chi dưới do đái tháo đường và các giá trị xét nghiệm liên quan, bao gồm số lượng bạch cầu lympho, albumin, hemoglobin và kiểm soát đường huyết.
Các mức độ bằng chứng: Chẩn đoán, Cấp IV
Viêm và/hoặc nhiễm trùng vùng kẹp là vấn đề phổ biến khi sử dụng thiết bị cố định ngoài. Các vùng kẹp cần được quản lý để giúp ngăn ngừa các biến chứng. Có nhiều phác đồ được đề xuất cho việc chăm sóc vùng kẹp trong tài liệu hiện có. Tác giả trình bày một phương pháp hiệu quả và đơn giản để giải quyết quy trình chăm sóc vùng kẹp bằng cách sử dụng khóa dây cùng với bọt nén cho các thiết bị cố định ngoài. Phương pháp này loại bỏ sự cần thiết của việc băng bó phức tạp và giúp việc chăm sóc vùng kẹp trở nên dễ dàng cho bệnh nhân. Một cái nhìn tổng quan ngắn gọn về bằng chứng hiện có về chăm sóc vùng kẹp được trình bày, và một quy trình chăm sóc vùng kẹp dựa trên bằng chứng cũng được đưa ra.
Mức độ Bằng Chứng: Điều trị, Cấp độ V